id
int64 2
19.8M
| revid
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 37
44
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 2
259k
|
---|---|---|---|---|
19,821,989 | 802888 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821989 | Hiệp ước Mặt Trăng | Hiệp ước Mặt Trăng, tên đầy đủ là Thỏa thuận Quản lý hoạt động của Các quốc gia trên Mặt Trăng và Các thiên thể khác (tiếng Anh: Agreement Governing the Activities of States on the Moon and Other Celestial Bodies), là một hiệp ước đa phương có mục đích trao quyền tài phán cho các quốc gia tham gia đối với tất cả các thiên thể (bao gồm cả các vật thể xung quanh các thiên thể đó). Vì vậy, tất cả các hoạt động tuân theo luật pháp quốc tế, bao gồm cả Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Hiệp ước chưa được phê chuẩn bởi bất kỳ quốc gia nào tham gia vào các chuyến bay vũ trụ tự phóng có con người (ví dụ, Hoa Kỳ, Nga (hay tiền thân là Liên Xô) hay Trung Quốc) kể từ khi nó được ký vào ngày 18 tháng 12 năm 1979, và do đó nó gần như không liên quan với trong luật pháp quốc tế. Kể từ tháng 1 năm 2022, có 18 quốc gia tham gia hiệp ước.
Mục tiêu.
Cần lưu ý rằng kể từ khi Hiệp ước Không gian ngoài thiên thể năm 1967 được ký kết, công nghệ và xã hội đã phát triển hơn, đòi hỏi phải xác định lại các quyền và trách nhiệm của công dân và chính phủ trong việc sử dụng và phát triển không gian ngoài thiên thể. Mục tiêu chính của Hiệp ước Mặt Trăng năm 1979 là "cung cấp các nguyên tắc pháp lý cần thiết để điều chỉnh hành vi của các quốc gia, tổ chức quốc tế và cá nhân tham gia khám phá các thiên thể khác ngoài Trái Đất, cũng như quản lý các nguồn tài nguyên mà việc thăm dò có thể phát hiện ra." Hiệp ước đề xuất thực hiện mục tiêu bằng cách yêu cầu các quốc gia thành viên tạo ra một "chế độ quốc tế" cùng với thiết lập các thủ tục thích hợp (Điều 11.5).
Tình trạng pháp lý.
Trong khi hiệp ước nhắc lại việc cấm tuyên bố chủ quyền đối với "bất kỳ phần nào" của vũ trụ, vấn đề thiếu chính xác hiện tại của hiệp ước, được gọi là chưa hoàn thành, đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Đây được coi là lý do chính khiến nó không được được hầu hết các quốc gia tham gia ký kết. Hiệp ước đề xuất rằng việc khai thác tài nguyên sẽ được điều chỉnh theo một cơ chế quốc tế (Điều 11.5), nhưng không có sự đồng thuận nào trong việc thiết lập các điều luật này.
Thỏa thuận đã được mô tả là không mang lại kết quả và có thể thất bại, nếu nó vẫn chưa được nhiều quốc gia phê chuẩn, đặc biệt là những quốc gia có hoạt động trong không gian. Chỉ một quốc gia (Ấn Độ) có khả năng thực hiện các chuyến bay tự phóng vào vũ trụ đã tham gia ký (nhưng chưa phê chuẩn) hiệp ước.
Các chuyên gia pháp lý gây tiếng vang, như S. Neil Hosenball, Tổng cố vấn của NASA và trưởng đoàn đàm phán Hiệp ước Mặt Trăng của Hoa Kỳ, đã quyết định vào năm 2018 rằng việc đàm phán các quy tắc của cơ chế quốc tế này nên được trì hoãn cho đến khi tính khả thi của việc khai thác các nguồn tài nguyên trên Mặt trăng được thiết lập vững chắc. Một chuyên gia về luật pháp vũ trụ và kinh tế đã tóm tắt rằng hiệp ước sẽ cần đưa ra các điều khoản thích hợp để chống lại bất kỳ công ty nào giành được vị trí độc quyền trên thị trường khoáng sản thế giới, đồng thời tránh việc "xã hội hóa Mặt trăng."
Năm 2020, Hiệp định Artemis đã được ký kết, tuy không đề cập đến hiệp ước nhưng hiệp định này vẫn có công kích hiệp ước. Vào thời điểm ký kết hiệp định, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cũng đã ban hành thêm một sắc lệnh có tên "Encouraging International Support for the Recovery and Use of Space Resources" ("Khuyến khích Hỗ trợ quốc tế cho Phục hồi và Sử dụng tài nguyên vũ trụ"). Sắc lệnh nhấn mạnh rằng "Hoa Kỳ không coi không gian ngoài thiên thể là 'tài sản chung toàn cầu" và gọi Hiệp ước Mặt Trăng là "một nỗ lực thất bại trong việc hạn chế doanh nghiệp tự do."
Việc Úc ký và phê chuẩn cả Hiệp ước Mặt Trăng và Hiệp định Artemis đã gây ra một cuộc thảo luận liệu chúng có thể được hài hòa với nhau hay không. Theo hướng này, một "Thỏa thuận thực thi" Hiệp ước Mặt Trăng nhận được sự ủng hộ, như một cách để bù đắp cho những thiếu sót của Hiệp ước Mặt Trăng và hài hòa nó với các điều luật khác, cho phép nó được chấp nhận rộng rãi hơn |
19,821,993 | 655 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821993 | Cụm tập đoàn quân Weichsel |
Cụm tập đoàn quân Weichsel () là một đơn vị quân sự chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của "Wehrmacht". Được thành lập vào ngày 24 tháng 1 năm 1945 với nhiệm vụ bảo vệ Berlin khỏi quân Liên Xô từ hướng sông Vistula, cụm tập đoàn quân bao gồm các đơn vị còn lại của cụm tập đoàn quân A (tan rã sau chiến dịch Wisla–Oder của Liên Xô), cụm tập đoàn quân Trung tâm (phần lớn bị tiêu diệt trong chiến dịch Đông Phổ) và các đơn vị thành lập mới. |
19,821,994 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821994 | Cụm tập đoàn quân G |
Cụm tập đoàn quân G (từ tháng 4 năm 1944 đến tháng 9 năm 1944 mang phiên hiệu "Armeegruppe G") là một đơn vị tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Đơn vị này tham chiến ở mặt trận phía Tây và trực thuộc OB West. |
19,821,995 | 655 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821995 | Cụm tập đoàn quân Ostmark |
Cụm tập đoàn quân Ostmark () là một đơn vị tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc Xã hoạt động trong giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ hai. |
19,821,996 | 832640 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821996 | Giáo phận Wonju | Giáo phận Wonju (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul. Lãnh đạo đương nhiệm của giáo phận là Giám mục Basiliô Cho Kyu-man.
Địa giới.
Địa giới giáo phận ở Hàn Quốc bao gồm:
Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Ban Ơn ở thành phố Wonju, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận.
Giáo phận được chia thành 53 giáo xứ.
Lịch sử.
Giáo phận được thành lập vào ngày 22/3/1965 theo tông sắc "Fidei propagandae" của Giáo hoàng Phaolô VI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Giáo phận Ch'unch'on (hiện là Giáo phận Chuncheon).
Vào ngày 29/5/1969 một phần lãnh thổ của giáo phận được tách ra để thành lập Giáo phận Andong.
Giám mục quản nhiệm.
Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ.
Thống kê.
Đến năm 2020, giáo phận có 79.402 giáo dân trên dân số tổng cộng 880.054, chiếm 9,0%. |
19,822,004 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822004 | Cụm tập đoàn quân 11 | Cụm tập đoàn quân 11 là đơn vị tác chiến chủ lực của quân đội Anh ở mặt trận Đông Nam Á trong chiến tranh thế giới thứ hai. |
19,822,007 | 529523 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822007 | Alfonso của Castilla | Alfonso của Castilla, Alfonso của Trastámara hay Alfonso Ngây thơ (tiếng Tây Ban Nha: "Alfonso de Castilla"; "Alfonso el Inocente"; tiếng Anh: "Alfonso of Castile"; 17 tháng 11 năm 1453 – 5 tháng 7 năm 1468) là Vương tử Castilla, Thân vương xứ Asturias và là nhân vật biểu tượng của cuộc nổi dậy của các cận thần Castilia chống lại người anh cùng cha khác mẹ của mình là Enrique IV của Castilla.
Thời thơ ấu.
Alfonso là con trai duy nhất còn sống của Juan II với người vợ thứ hai là Isabel của Bồ Đào Nha. Chị gái của Alfonso là Isabel, tương lai là Nữ vương Isabel I của Castilla, cũng là con gái duy nhất còn sống của Juan II và Isabel của Bồ Đào Nha.
Sau cái chết của cha là Juan II, Alfonso, mẹ và chị gái gần như bị lưu đày, trong khi Thái hậu Isabel bị đưa đến Arevalo thì hai chị em đến Segovia. Khi Alfonso khoảng bảy tuổi, Vương tử cùng chị gái được chuyển đến triều đình của Enrique IV tại Madrid và được đặt trong hộ gia của Vương hậu Joana. Trong thời gian này, có tin đồn rằng Vương hậu Joana đã cố gắng đầu độc Alfonso ít nhất một lần để đảm bảo quyền kế vị cho cô con gái duy nhất của mình.
Người thừa kế ngai vàng.
Vào đầu những năm 1460, các quý tộc Castilia trở nên không hài lòng với sự cai trị của Enrique IV và tin rằng đứa con của Vương hậu Joana (Juana, Nữ Thân vương xứ Asturias) không phải con gái của nhà vua. Thông qua tuyên truyền và đồn thổi, được tiếp tay bởi liên minh các quý tộc nổi loạn, lập luận rằng cha của Juana thực chất là Beltrán de la Cueva, một sủng thần của vương thất có xuất thân thấp kém, người mà Henry đã nâng lên thành quyền lực to lớn và người, theo gợi ý của Alfonso de Palencia và những người khác, có thể là người tình của Joana. Điều này dẫn đến cái tên "Juana la Beltraneja" gắn với Vương nữ Juana theo dòng lịch sử. Nếu Juana là con ngoại hôn của Vương hậu Joana, thì người kế vị hợp pháp là Alfonso. Nếu Joana đích thực là con gái của Enrique IV thì Alfonso và người chị gái trứ danh Isabel I của Castilla đều là những kẻ soán ngôi. Xem xét những ảnh hưởng của Isabel I đối với lịch sử thế giới, câu hỏi này đã thu hút các nhà sử học trong nhiều thế kỷ.
"Alfonso XII của Castilla".
Liên minh các quý tộc kiểm soát Alfonso đã buộc Henry với Đại diện của Burgos năm 1464 phải từ chối Joanna và công nhận Alfonso là người thừa kế chính thức của mình. Alfonso do đó trở thành Thân vương xứ Asturias, thay thế cháu gái Juana. Enrique IV đã đồng ý yêu cầu này với điều kiện rằng Alfonso sẽ kết hôn với Juana trong tương lai, để đảm bảo rằng một ngày nào đó cả hai đều sẽ nhận được ngai vàng.
Không lâu sau đó, Enrique IV đã thất hứa và bắt đầu ủng hộ quyền kế vị của con gái một lần nữa. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1465, liên minh quý tộc chống lại Enrique IV đã tiến hành nghi lễ phế truất hình nộm của Enrique IV bên ngoài thành phố Avila và tôn Alfonso làm quốc vương đối đầu với Enrique IV. Sự kiện này được gọi là Trò hề Ávila. Không lâu sau đó, Alfonso bắt đầu trao đất đai và phong tước vị như thể bản thân đã là quân chủ chân chính. Một cuộc nội chiến bắt đầu. Cuộc đụng độ đáng chú ý nhất là tại Trận Olmedo lần thứ hai vào năm 1467, kết thúc với kết quả hòa.
Qua đời và chôn cất.
Tuy nhiên, vào năm 1468, Alfonso đột ngột qua đời khi chỉ được 14 tuổi. Nguyên nhân cái chết vẫn chưa được xác định, nhưng có khả năng là do một căn bệnh nào đó như bệnh lao hoặc dịch hạch (mặc dù có tin đồn rằng Alfonso đã bị kẻ thù đầu độc).
Alfonso được chôn cất gần cha mình, (sau này di hài của Isabel của Bồ Đào Nha cũng được an táng tại đây) tại Tu viện Miraflores, được ủy quyền bởi Nữ vương Isabel I. Năm 2006, trong quá trình trùng tu tu viện, Tổng cục Di sản Văn hóa và Tài sản của Junta de Castilla y León đã quyết định thực hiện một nghiên cứu nhân chủng học về các ngôi mộ. Hài cốt của Alfonso, được đặt trong một chiếc quan tài bằng gỗ óc chó, được tìm thấy trong tình trạng bảo quản kém. Chiều cao của Alfonso được ước tính là 165 cm.
Vào năm 2013, một nghiên cứu chi tiết hơn dựa trên những kết quả này đã được Đại học León công bố với giả thuyết rằng Alfonso thực chất đã bị hạ độc, vì các triệu chứng không giống với các triệu chứng của bệnh dịch hạch thể hạch và hài cốt của Alfonso cũng không có dấu vết của vi khuẩn "Yersinia pestis".
Theo ý nguyện của mình, ngai vàng sẽ được kế thừ bởi chị gái Isabel, người được đề nghị thay thế em trai trở thành biểu tưởng của quân nổi loạn. Ngay sau đó, Isabel đã từ chối, và sau một cuộc đàm phán tại Toros de Guisando, Isabel và đồng minh của mình đạt được hầu hết mục tiêu, Enrique đã chấp thuận loại trừ con gái Juana khỏi vị trí kế vị và công nhận Isabel là người thừa kế chính thức của mình. Mặc dù Enrique tiếp tục chống lại quyết định này khi có thể, nhưng nỗ lực của Enrique IV không thành công, và quốc vương vẫn duy trì thế hòa hảo với Isabel trong suốt triều đại của mình. Isabel cũng trở thành vị vua tiếp theo của Castilla khi Enrique IV qua đời vào năm 1474. |
19,822,016 | 11 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822016 | Joe Locke | Joseph William Locke (sinh ngày 24 tháng 9 năm 2003) là một diễn viên người Manx. Anh được biết đến với nam chính Charlie Spring trong sê-ri phim tuổi teen "Trái tim ngừng nhịp" (2022-hiện tại) của Netflix, tại đây anh đã nhận được đề cử Giải Emmy dành cho Trẻ em và Gia đình.
Xuất thân và giáo dục.
Joseph William Locke sinh ngày 24 tháng 9 năm 2003. Anh sinh ra và lớn lên tại Douglas, đảo Man, sau đó theo học tại Trường Trung học Ballakermeen. Chia sẻ với "This Morning" của ITV vào tháng 4 năm 2022, anh đang ôn tập để lấy bằng A-level cho các môn chính trị, lịch sử và tiếng Anh. Khi còn học trung học, Locke và ba bạn học đã đệ đơn yêu cầu các quan chức chính phủ điều tra tính khả thi việc cho phép những người tị nạn Syria đến Đảo Man.
Sự nghiệp.
Vào năm 2020, Locke trở thành thành viên của Nhà hát Quốc gia Connections cũng như sản xuất tại Nhà hát Gaiety cùng một nhóm thanh niên thuộc Trung tâm Nghệ thuật Kensington. Đến tháng 4 năm 2021, Locke được thông báo sẽ đảm nhận vai chính Charlie Spring, đây cũng là vai diễn đầu tay của anh trong loạt phim tuổi mới lớn "Trái tim ngừng nhịp" được chuyển thể từ webcomic và tiểu thuyết đồ họa cùng tên của Alice Oseman do Netflix phát hành vào năm 2022. Anh được chọn trong số 10.000 diễn viên tiềm năng khác thông qua một cuộc gọi tuyển chọn diễn viên mở. Vào thời điểm ghi hình, anh đã 17 tuổi nhưng vào vai một cậu học sinh 14-15 tuổi.
Tháng 11 năm 2022, Locke đã được chọn tham gia loạt phim truyền hình ăn theo WandaVision, "" của Marvel Studios được phát hành trên Disney+.
Đời tư.
Locke công khai xu hướng tính dục trên Instagram và với mẹ của mình, bản thân là người đồng tính khi chỉ mới 12 tuổi. Tuy nhiên, sau đó anh đã xóa bài đăng này khỏi Instagram và không công khai cho đến năm 15 tuổi vì cho rằng bản thân sẵn sàng công khai xu hướng tính dục với gia đình chứ không phải thế giới. Locke cũng từng chia sẻ với truyền thông những trải nghiệm cá nhân khi là một người đồng tính trẻ xuất thân từ đảo Man cùng những điểm tương đồng giữa bản thân với nhân vật Charlie trong loạt phim "Trái tim ngừng nhịp".
Vào tháng 8 năm 2022, Bộ trưởng Bộ y tế của đảo Man, Lawrie Hooper, đã xác thực chính phủ sẽ thay đổi lệnh cấm hoàn toàn đối với những người đồng tính nam hiến máu sau khi Locke kêu gọi thay đổi quy định "lỗi thời" trong một video được phát tại lễ tự hào hàng năm trên đảo. |
19,822,064 | 880080 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822064 | Lê Cao Hoài An | Lê Cao Hoài An (sinh ngày 19 tháng 9 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm trong màu áo của câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam. |
19,822,076 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822076 | Clara Sosa | María Clara Sosa Perdomo (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1993) là một người mẫu, MC, nữ hoàng sắc đẹp người Paraguay. Cô đăng quang Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2018 và là người Paraguay đầu tiên đoạt được danh hiệu này.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Sosa sinh ra ở thủ đô của Paraguay, Asunción, và lớn lên ở San Lorenzo. Cô là người mẫu thuộc quản lý của ON Management và cũng là MC dẫn chính của chương trình chào buổi sáng ăn khách "La mañana de Unicanal".
Các cuộc thi sắc đẹp.
Năm 2015, cô tham gia và lọt vào Top 20 cuộc thi Người mẫu Thế giới. Ngày 9 tháng 6 năm 2018, cô được trao vương miện Hoa hậu Hòa bình Paraguay trong đêm chung kết diễn ra tại Nhà hát Khách sạn Guarani.
Sosa sau đó tiếp tục đăng quang Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2018, diễn ra vào ngày 25 tháng 10 ở One Entertainment Park tại Yangon, Myanmar. Cô là người Paraguay đầu tiên giành chiến thắng tại đấu trường này. |
19,822,077 | 855455 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822077 | Timelapse of the Future | Timelapse of the Future: A Journey to the End of Time là một web film ngắn khoa học viễn tưởng năm 2019 do nhạc sĩ kiêm nhà làm phim theo chủ đề thiên văn học người Mỹ John D. Boswell làm ra, nối tiếp "Timelapse of the Entire Universe". Bộ phim dài 29 phút là một flowmotion—sự kết hợp của các cảnh hyperlapse, tua nhanh thời gian (timelapse) và tốc độ thường—về vũ trụ từ năm 2019 đến tận cùng của thời gian, với thời gian trôi đi tăng gấp đôi sau mỗi 5 giây. Bộ phim bao gồm các thước phim tự làm và fair use, và các bài phát biểu của các nhà khoa học, sử dụng kiến thức hiện tại kết hợp các giả thuyết khác nhau.
Sau 6 tháng sản xuất, "Timelapse of the Future" đã được phát hành trên YouTube và được chiếu ở một số địa điểm; bộ phim cũng đã giành được giải Webby 2020. Bộ phim đã trở nên lan truyền, thu hút hàng triệu lượt xem và nhìn chung là được đánh giá tích cực. Bộ phim đã truyền cảm hứng cho một bài hát và video âm nhạc của Noah Cyrus, người đã ca ngợi các yếu tố hiện sinh của bộ phim. Một spin-off, "Life Beyond", sau đó đã được thực hiện.
Nội dung.
Bộ phim mở đầu và kết thúc bằng câu nói của Helen Keller:"Everything has its wonders, even darkness and silence. And I learn, whatever state I may be in, therein to be content."Tạm dịch:
"Mọi thứ đều có điều kỳ diệu, ngay cả bóng tối và sự im lặng. Và tôi học được rằng, dù tôi ở trạng thái nào, thì tôi vẫn hài lòng."
Kỷ nguyên Anthropocene bắt đầu. Sau các sự kiện tự nhiên, con người đáp xuống Sao Hỏa và từ trường của Trái Đất bị đảo lộn. Sao chổi Hale-Bopp quay trở lại vào năm 3357, tiếp theo là mực nước biển dâng cao, va chạm với tiểu hành tinh và Antares trở thành siêu tân tinh. Sahara trở thành rừng nhiệt đới vào năm 14.811, các chòm sao bắt đầu bị thay đổi, "Voyager 1" đi qua Gliese 445 vào năm 38.874 và thời kỳ gian băng (Interglacial Period) kết thúc. Vào năm 97.583, siêu núi lửa Yellowstone phun trào. Dấu chân của phi hành gia "Apollo 11" mờ dần vào năm 968.657. Betelgeuse trở thành siêu tân tinh và các di tích bằng đá bị xói mòn. Một vụ nổ tia gamma xảy ra. Phobos trở thành hệ thống vành đai của Sao Hỏa, trong khi vành đai của Sao Thổ biến mất. Nam Cực tan chảy vào năm 43.343.155, sau đó là tác động đáng kể của một tiểu hành tinh vào năm 70.606.131, tiếp đó là sự hình thành của một siêu lục địa mới vào năm 153.793.159. Độ sáng của Mặt Trời tăng vào năm 427.821.025, khiến thực vật chết vào năm 833.270.413, tiếp đó là toàn bộ sự sống vào năm 2.952.729.059, khi các đại dương bốc hơi. Mặt Trời sau đó mở rộng và trở thành một sao khổng lồ đỏ—hủy diệt Trái Đất trong quá trình đó—trước khi chết đi, trở thành sao lùn trắng vào năm 7.650.412.497. Những ngôi sao khác cũng dần dần chết theo. Những sao lùn đỏ cuối cùng chết vào năm thứ 100.000.000.000.000.
Khi các ngôi sao hoàn toàn cạn kiệt nhiên liệu, Kỷ nguyên Thoái hóa bắt đầu. Vũ trụ giờ chỉ chứa các sao xung, lỗ đen và sao lùn nâu, hầu như không được chiếu sáng bởi sao lùn trắng. Theo thời gian, lực hấp dẫn đẩy hầu hết tàn dư vũ trụ vào không gian liên sao, còn những vật chất không thoát ra được khỏi thiên hà thì sẽ bị lỗ đen siêu lớn ở trung tâm mỗi thiên hà hút vào. Đáng chú ý là các sao neutron có thể va chạm với nhau và tạo ra các siêu tân tinh siêu sáng. Sự sống ngoài Trái Đất có thể sống xung quanh các sao lùn trắng, nhưng tới một ngày nào đó, sao lùn trắng sẽ mờ đi và trở thành sao lùn đen.
Các lý thuyết dự đoán rằng các nền văn minh có thể sử dụng lỗ đen như một nguồn năng lượng, đồng thời làm chậm thời gian của họ để tồn tại. Tuy nhiên, nếu proton là không ổn định, chúng sẽ phân rã thành các hạt hạ nguyên tử nhẹ hơn. Điều đó sẽ khiến các nguyên tử tan rã theo, từ đó khiến mọi vật chất suy biến còn lại trong vũ trụ tan rã.
Với việc các proton đã hoàn toàn phân rã, Kỷ nguyên Lỗ đen bắt đầu. Vũ trụ giờ chứa các "thiên hà zombie" gồm các lỗ đen và các hạt ánh sáng lang thang. Các lỗ đen đôi có thể hợp nhất, giải phóng một lượng năng lượng khổng lồ dưới dạng sóng hấp dẫn. Vào năm 159 novemdecillion (159 × 1060), bức xạ Hawking khiến các lỗ đen đầu tiên chết đi. Khi chúng phát nổ, chúng chiếu sáng lại bóng tối xung quanh. Vũ trụ vẫn tiếp tục mở rộng hơn nữa bởi năng lượng tối, nếu nó vẫn tồn tại vào thời điểm đó, và sẽ khiến vũ trụ giãn nở mãi mãi.
Các lý thuyết dự đoán rằng các nền văn minh, bao gồm cả con người, có thể tạo ra vũ trụ ảo hoặc vũ trụ thật của riêng họ, xem xét khả năng tồn tại của đa vũ trụ và sự tiến hóa giữa các vũ trụ. Tuy nhiên, nếu việc thoát khỏi vũ trụ là không thể, entropy sẽ hủy diệt các lỗ đen còn lại. Lỗ đen cuối cùng bốc hơi vào năm 15 untrigintillion (15 × 1096), khiến vũ trụ trở thành "không có gì ngoài một biển photon dần dần có xu hướng về cùng nhiệt độ khi sự giãn nở của vũ trụ làm nguội chúng về độ không tuyệt đối" theo Brian Cox. Trong thời gian này, mọi thứ trong vũ trụ sẽ phân rã thành hư vô, khiến vũ trụ kết thúc vào năm 1 googol (10100). Khi điều này xảy ra, thời gian không còn giá trị gì nữa (nó "trở nên vô nghĩa").
Sau đoạn credit ngắn, một dòng chữ xuất hiện có nội dung """Dành cho Ash" ("For Ash"), tên con trai của Boswell, sinh ngày 1 tháng 1 năm 2019.
Sản xuất.
Phim.
Bộ phim bắt đầu được sản xuất vào mùa hè năm 2018. Vào ngày 9 tháng 10 năm 2018, Boswell đã đăng trên tài khoản Twitter của mình hình ảnh về thử nghiệm ban đầu của bộ phim: hình ảnh hoạt họa về một lỗ đen. Thử nghiệm ban đầu này hoàn toàn khác với kết quả cuối cùng của phim: các số biểu thị năm cực lớn được biểu thị bằng lũy thừa, không có bộ đếm chuyển động (moving counter) và văn bản trực tiếp trên frame, thay vì trên hard matte dưới; không có nhiều tuyên bố về việc sản xuất bộ phim, ngoài việc "Làm ra nó cần nhiều tháng nghiên cứu về vũ trụ học vật lý, nơi những suy đoán về số phận cuối cùng của vũ trụ là vô số, và thường trái ngược nhau" ("Creating it required months of research into physical cosmology, where speculations about the ultimate fate of the universe are legion, and often contradictory"). Boswell nói rằng mình đã được truyền cảm hứng, "nhiều năm trước", bởi ý tưởng về việc Mặt Trời sắp chết sau 5 tỷ năm nữa, Boswell đặt câu hỏi "Điều gì sẽ xảy ra sau đó? Điều gì sẽ xảy ra không phải trong 5 tỷ năm, mà là 5 nghìn tỷ năm? Các câu trả lời đã có sẵn, nhưng chúng là từng phần và không được xâu chuỗi lại với nhau một cách thuyết phục. Vì vậy, tôi đã tận dụng cơ hội để tạo ra thứ gì đó độc đáo làm nổi bật những dự đoán chung của chúng tôi về tương lai, cả ngắn hạn và dài hạn" ("What happens after that? What happens not in 5 billion years, but 5 trillion? The answers are out there, but they are piecemeal and not strung together in a compelling way. So I took the opportunity to create something unique highlights our collective predictions about the future, both short-term and long-term").
Sau đó, qua Long Now Foundation, Boswell nói thêm:
"My original plan was to make something more like an art installation piece where there wouldn't be so much talking and facts; it would basically just be the timeline and some chill music and meditative imagery of black holes that would just span for like 10 minutes at a time, and you'd get this abstract impression of how long the future is going to be, and how much emptiness there is. But the more I dug into it, the more I found there's so much to talk about, and so much to say, that it would be foolish to waste this opportunity. I had a draft of this [in summer 2018], and felt it needed to be taken to the next level. So I spent another six months really digging into the VFX of it all, and the research, and figuring out how to build the flow of it and the structure and how to make it work. And I am glad I did. There's just so much to say, and so much I had to leave out. But it came together really well and I am pretty stoked about how it turned out."Tạm dịch:
"Kế hoạch ban đầu của tôi là tạo ra thứ gì đó giống một tác phẩm nghệ thuật sắp đặt hơn, nơi sẽ không có quá nhiều lời nói và sự thật; về cơ bản nó sẽ chỉ là dòng thời gian và một số bản nhạc chill và hình ảnh trầm tư (meditative) về các lỗ đen sẽ chỉ kéo dài khoảng 10 phút mỗi lần và bạn sẽ có ấn tượng đầy trừu tượng về tương lai sẽ kéo dài bao lâu và có bao nhiêu sự trống rỗng ở đó. Nhưng càng đào sâu vào nó, tôi càng thấy có quá nhiều điều để nói, đến nỗi sẽ thật ngu ngốc nếu bỏ lỡ cơ hội này. Tôi đã có một bản thảo về điều này [vào mùa hè năm 2018] và cảm thấy nó cần được đưa lên một tầm cao mới. Vì vậy, tôi đã dành thêm sáu tháng nữa để thực sự đào sâu vào VFX của tất cả, nghiên cứu và tìm ra cách xây dựng flow của nó, cấu trúc cũng như cách làm cho nó hoạt động. Và tôi vui vì tôi đã làm. Có quá nhiều điều để nói, và rất nhiều điều tôi phải bỏ qua. Nhưng nó đã kết hợp với nhau rất tốt và tôi khá ngạc nhiên về cách nó thành ra."Giống như các bộ phim khác, các hình ảnh hoạt họa và các chỉnh sửa, Boswell sử dụng Cinema 4D, Octane Render và Adobe After Effects. Closed captioning được thực hiện bởi các tình nguyện viên trên Amara và YouTube; closed captioning bằng tiếng Anh được tạo theo cách thẩm mỹ hơn là theo cách dễ tiếp cận, trong đó phụ đề chi tiết được tạo cho người khiếm thính.
Boswell, giống như một số bộ phim khác của ông, được hỗ trợ bởi nhà khoa học máy tính Juan Benet.
Âm thanh và âm nhạc.
Boswell cho biết đã sử dụng một số stock audio trên Spitfire Audio, Komplete, 8dio và Omnisphere thay vì chỉ sử dụng soundtrack gốc được sáng tác bằng Ableton Live; synth được chơi bằng Yamaha CS-80 và Moog Sub 37. Giai điệu piano cho bộ phim được chơi bởi Gulbransen, một nhạc cụ mà Boswell sử dụng nhiều lần. Track đầu tiên của soundtrack, "Sun" "Mother", sử dụng điệu 120 nhịp một phút, tăng dần theo thời gian để "làm nổi bật tốc độ tăng tốc của [thời gian trôi đi]". Timing của bài hát cũng được cân nhắc, ông nói rằng "Đối với tôi, điều quan trọng là phải có những khoảnh khắc mà âm nhạc, hình ảnh và hiệu ứng âm thanh có thể biểu lộ được và người xem có thể tiếp thu những gì họ đã thấy" ("It was important to me to have moments where the music, visuals, and sound effects could breathe, and the viewer could take in what they have seen").
Phương pháp luận.
Phương pháp thời gian trong phim "được suy xét và trickery nhiều hơn" ("a lot more thought and trickery") so với web film "Timelapse of the Entire Universe" trước đó vốn có thời lượng 10 phút, trong đó mỗi giây là 22 triệu năm và mỗi khung hình xấp xỉ 958.000 năm, tóm tắt lại lịch sử của vũ trụ từ lúc Vụ Nổ Lớn xảy ra cho đến ngày nay. Boswell đã chọn một phương pháp luận khác trong "Timelapse of the Future," nói rằng:"It could have been every three seconds, and the video would have been over in fifteen minutes. But then you're really cramming a ton of stuff into the first few minutes. Everything from the present day to the death of the Earth would've occurred in one minute instead of three to four. That would've made it really hard to breathe. But then you have to apply that same rule to the rest of the video, and ensure you've got enough stuff in there to fill the time. It's a balance."Tạm dịch:"Nó có thể là ba giây một lần và video sẽ kết thúc sau mười lăm phút. Nhưng sau đó bạn thực sự nhồi nhét rất nhiều thứ vào vài phút đầu tiên. Mọi thứ từ ngày nay cho đến cái chết của Trái Đất sẽ diễn ra trong một phút thay vì ba đến bốn phút. Điều đó sẽ làm cho nó thực sự hard to breathe. Nhưng sau đó, bạn phải áp dụng quy tắc tương tự cho phần còn lại của video và đảm bảo rằng bạn có đủ nội dung trong đó để lấp đầy thời gian. Đó là một sự cân bằng."Trong "Timelapse of the Future", thời gian trên mỗi khung hình giảm xuống còn khoảng 0,5 tháng cho mỗi khung hình (phim là 24 khung hình một giây) vào lúc đầu và tăng lên dần dần sau đó.
Phát hành.
Tweet đầu tiên được biết là liên quan đến bộ phim là một tweet vào ngày 21 tháng 7 năm 2018, về Pangaea Ultima, một sự kiện có trong phim. Dòng tweet đầu tiên đề cập rõ ràng đến việc sản xuất bộ phim đã được đăng vào ngày 10 tháng 10, cũng như một dòng tweet khác gián tiếp đề cập đến phần kết của bộ phim 8 ngày sau đó. Đoạn teaser đầu tiên được đăng trên Patreon và Vimeo của Boswell vào ngày 1 tháng 2 năm 2019, tiếp theo là một thông báo trên Patreon, đề cập bộ phim là "bản phát hành đầy tham vọng nhất của tôi" ("my most ambitious release yet"). Một hình ảnh về một cảnh trong phim đã bị rò rỉ trên Twitter của Boswell vào ngày 15 tháng 3, tiếp theo là một đoạn giới thiệu dài 70 giây vào ngày hôm sau.
Bộ phim đã được phát hành trên kênh YouTube Melodysheep của Boswell vào ngày 20 tháng 3, 17:15 UTC. Phim được chiếu tại event venue 393, thành phố New York vào ngày 2 tháng 5, sử dụng định dạng nhiều màn hình nhưng bộ đếm năm (year counter) không nhìn thấy được; những Patron của Boswell đã cung cấp vé miễn phí. Phim được chiếu một lần khác tại Exploratorium, San Francisco, vào ngày 25 tháng 7 lúc 9:30 tối (theo giờ Thái Bình Dương), với buổi chiếu cuối cùng lồng tiếng bởi dự án Atomic Studio với phần lồng tiếng của Andrey Lysenko diễn ra tại Rodina Film Centre, St. Petersburg, Nga, vào ngày 3 tháng 11 lúc 6:30 chiều MSK. Một buổi thuyết trình được tổ chức tại Treefort Music Fest lẽ ra sẽ diễn ra vào ngày 28 tháng 3 năm 2020, nhưng đã bị hoãn lại đến ngày 23 tháng 9 hoặc 2021 do đại dịch COVID-19. |
19,822,080 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822080 | Bá tước xứ Jersey | Bá tước xứ Đảo Jersey (tiếng Anh: "Earl of the Island of Jersey"), thường được rút ngắn và gọi tắt là Bá tước xứ Jersey, là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh. Nó được nắm giữ bởi một nhánh của gia tộc Villiers, mà từ năm 1819 là gia tộc Child Villiers.
Tước hiệu được tạo ra vào năm 1697, dưới thời của Vua William III, và được trao cho Edward Villiers, Tử tước Williers thứ nhất, người giữ chức Đại sứ Anh tại Pháp từ năm 1698 đến 1699 và Ngoại trưởng từ năm 1699 đến năm 1700. Tước vị được lấy theo Đảo Jersey, Địa hạt Jersey, một lãnh địa vương quyền của Anh nằm ở Eo biển Manche. Bá tước xứ Jersey đã truyền đời được đến tận ngày nay, hiện đã là đời thứ 10 và vị Bá tước đang tại nhiệm là William Child Villiers. |
19,822,099 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822099 | Stenocereus | Stenocereus (tiếng Hy Lạp "stenos", hẹp, tiếng Latin "cereus", nến) là một chi xương rồng. là loài bản địa của vùng Bán đảo Baja California và các phần khác của México, Arizona ở Hoa Kỳ, Colombia, Costa Rica, Guatemala, Venezuela và Tây Ấn. Chi này đã được mở rộng bằng cách bổ sung các loài từ một số chi khác. Một họ hàng gần là chinoa đặc biệt hoặc xương rồng chende, "Polaskia chende".
Mô tả.
Những bông hoa chủ yếu được mọc gần đỉnh của thân cây và chủ yếu mọc về đêm. Các loài trong chi này được coi là dễ trồng và thường phát triển chậm.
"Stenocereus thurberi" là một thành viên nổi tiếng của chi này và phân bố rộng rãi ở Arizona và miền bắc México.
Quả tương tự như quả thanh long. Loài "Stenocereus gummosus", có tính acid và thường rất tươi, rất được người Seris ở tây bắc México ưa chuộng, họ gọi cây xương rồng "ziix là ccapxl" - "thứ có quả chua". Chi này thường được biết đến trong tiếng Tây Ban Nha là "pitaya agria", có nghĩa là "thanh long chua". "S. griseus", được người dân địa phương gọi là "iguaraya" và được người Wayuu từ Bán đảo La Guajira của Colombia thưởng thức.
Các loài.
Chi này có các loài sau: |
19,822,100 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822100 | Bá tước xứ Cardigan | Bá tước xứ Cardigan (tiếng Anh: "Earl of Cardigan") là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh, hiện do Hầu tước xứ Ailesbury nắm giữ, và được sử dụng như một tước hiệu lịch sự bởi người thừa kế rõ ràng của Hầu tước đương nhiệm, hiện là David Brudenell-Bruce, Bá tước xứ Cardigan, con trai của Hầu tước thứ 8. Gia tộc Brudenell là hậu duệ của Ngài Robert Brudenell, Chánh án của Common Pleas từ năm 1520 đến năm 1530 (toà án thông luật cao thứ 2 ở Anh cho đến năm 1875). Chắt của ông, Ngài Thomas Brudenell, được trao tước vị Nam tước, của xứ Deene ở Hạt Northampton", vào ngày 29 tháng 6 năm 1611. Vào ngày 26 tháng 2 năm 1628, ông được nâng lên hàng Đẳng cấp quý tộc Anh với tư cách là Nam tước Brudenell, của Stanton Wyvill ở Hạt Leicester, và vào ngày 20 tháng 4 năm 1661, ông được vinh danh hơn nữa khi được phong làm Bá tước xứ Cardigan, cũng trong Đẳng cấp quý tộc Anh. |
19,822,104 | 903831 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822104 | Super Top Model po-ukrainsky, Mùa 7 | Super Top Model po-ukrainsky, Mùa 7 là mùa thứ bảy của Top Model po-ukrainsky được dựa theo "America's Next Top Model" của Tyra Banks. Alla Kostromichova, Sergiy Nikityuk và Sonya Plakidyuk quay lại làm giám khảo cho mùa này còn Volodimir Demchinskiy sẽ không còn là giám khảo nữa và sẽ thay thế ông là một vị giám khảo khách mời ở mỗi tập. Trong mùa này, một lần nữa sẽ không có thí sinh nam tham gia trong mùa này.
Thí sinh của mùa 1, Tanya Bryk là quán quân của mùa này. Cô giành được:
Tuyển chọn.
Mùa thi này được gọi là mùa giải All-Stars vì đây là mùa thi dành cho những thí sinh đã từng tham gia các mùa trước của chương trình. 20 người đại diện cho cả 6 mùa thi của Supermodel po-ukrainsky & Top Model po-ukrainsky đã được chọn thông qua cuộc bình chọn của khán giả trên website của chương trình và cho thêm 1 cơ hội thứ 2 để giành chiến thắng cuộc thi. Tuy nhiên, có một số thí sinh khác cũng được chọn vào mùa thi này nhưng họ đã từ chối. |
19,822,105 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822105 | Bá tước xứ Denbigh | Bá tước xứ Denbigh (tiếng Anh: "Earl of Denbigh"; phát âm là 'Denby') là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Anh. Nó được tạo ra vào năm 1622 cho William Feilding, Tử tước Feilding, một cận thần, đô đốc và là anh rể của George Villiers, Quận công Buckingham thứ nhất, người nắm nhiều quyền lực đương thời. Tước hiệu được đặt theo tên của thị trấn Denbigh ở hạt Denbighshire, xứ Wales. Kể từ thời của bá tước thứ ba (1640), Bá tước xứ Denbigh cũng đã giữ tước hiệu Bá tước xứ Desmond, trong Đẳng cấp quý tộc Ireland.
Trụ sở của gia tộc bá tước là Newnham Paddox, ở giáo xứ Monks Kirby, Warwickshire. Bá tước đời thứ 8 cải sang Công giáo La Mã trong những năm 1850, theo đó gia đình vẫn giữ đức tin. Bá tước là một trong những tước vị cha truyền con nối có quyền ngồi trong Viện Quý tộc đã bị loại bỏ bởi Đạo luật Viện Quý tộc 1999. |
19,822,109 | 912896 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822109 | Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 - Giải đấu Liên Minh Huyền Thoại | Thể thao điện tử Liên Minh Huyền Thoại tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 sẽ là một nội dung thi đấu biểu diễn được tranh tài từ ngày 27 tháng 8 năm 2018 đến ngày 29 tháng 8 năm 2018. Đây là lần đầu tiên bộ môn Liên Minh Huyền Thoại được đưa vào thi đấu chính thức tại 1 sự kiện thể thao đa môn.
Vòng bảng.
8 đội tuyển sẽ được chia thành 2 bảng, mỗi bảng có 4 đội. 2 đội có thành tích tốt nhất của 2 bảng sẽ giành quyền vào vòng loại trực tiếp. |
19,822,111 | 832640 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822111 | Giáo phận Copenhagen | Giáo phận Copenhagen (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Đan Mạch. Giáo phận được đặt tên theo nơi đặt tòa giám mục là thủ đô Copenhagen của Đan Mạch. Địa giới giáo phận bao gồm toàn bộ nước này, trong đó có cả hai lãnh thổ hải ngoại, quần đảo Faroe và Greenland. Có khoảng 36.000 (0,7%) giáo dân trong giáo phận trên tổng dân số 5.516.597. |
19,822,113 | 70575445 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822113 | Heo (định hướng) | Heo có thể là: |
19,822,125 | 11 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822125 | Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1880 | Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1880 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 24, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 2 tháng 11 năm 1880. Ứng cử viên Đảng Cộng hòa James A. Garfield đã đánh bại Winfield Scott Hancock của Đảng Dân chủ. Tỷ lệ cử tri đi bầu trong cuộc bầu cử này cao bậc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. 8 tháng sau đó, vào ngày 2 tháng 7 năm 1881, Garfield bị ám sát và qua đời tháng sau đó vào ngày 19 tháng 9, Phó Tổng thống Chester A. Arthur nhậm chức và kế vị Garfield ngay sau đó.
Tổng thống đương nhiệm Rutherford B. Hayes trước đó đã tuyên bố không ra tái tranh cử. Sau đại hội đảng dài nhất trong lịch sử, các đảng viên Cộng hòa đã chọn Dân biểu Garfield từ Ohio làm ứng cử viên Tổng thống của họ. Trong khi đó, Đảng Dân chủ đã chọn Tướng Winfield Scott Hancock từ Pennsylvania làm ứng cử viên của mình. Vị thế thống trị của hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đã lung lay dữ dội khi một đảng cánh tả mới nổi, Đảng Đồng bạc xanh, đề cử một vị tướng Nội chiến khác làm ứng cử viên Tổng thống, Dân biểu từ Iowa James B. Weaver. Trong một cuộc bầu cử với các chủ đề tranh luận chính xoay quanh các vấn đề như Nội chiến Hoa Kỳ, thuế quan và người Mỹ gốc Hoa, Garfield thắng cả phiếu đại cử tri và phiếu phổ thông với cách biệt sít sao. Ông và Hancock mỗi người chỉ chiếm hơn 48% tổng số phiếu phổ thông, trong khi Weaver và hai ứng cử viên đảng nhỏ khác, Neal Dow và John W. Phelps, thắng số phiếu còn lại.
Cuối cùng, cách biệt số phiếu phổ thông của hai ứng cử viên chính là 1.898 phiếu (tương ứng với 0,11%), cách biệt nhỏ nhất trong phiếu phổ thông từng được ghi nhận. Tuy nhiên, trong cử tri đoàn, cách biệt chiến thắng của Garfield lớn hơn nhiều; ông đã giành chiến thắng quyết định ở bang New York với 21.033 phiếu bầu (tương ứng với 1,91%). Dù thắng tất cả các bang miền Nam nhưng điều đó là không đủ để Hancock giành chiến thắng, nhưng nó đánh dấu sự khởi đầu của sự thống trị của đảng Dân chủ tại miền Nam trong nhiều thập kỷ tiếp theo.
Đây cũng là cuộc bầu cử thứ hai mà hai ứng cử viên (nhận được phiếu đại cử tri) thắng số bang bằng nhau. Điều này cũng xảy ra vào năm 1848 và 2020. Đây là chiến thắng cuối cùng trong chuỗi 6 chiến thắng trong các cuộc bầu cử tổng thống liên tiếp của Đảng Cộng hòa. Đây cũng là lần đầu tiên người dân ở mọi bang có thể bỏ phiếu trực tiếp cho các đại cử tri bầu tổng thống.
Bối cảnh.
Hai đảng chính là Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ, và sau khi Kỷ nguyên Tái thiết chấm dứt vào năm 1877, cử tri toàn quốc đã luôn bầu cho ứng cử viên từ 1 trong 2 đảng này. Cử tri đi bầu không bầu cho ứng cử viên dựa trên ý thức hệ của họ; mà thay vào đó dựa trên sắc tộc và tôn giáo của mình, cũng như lòng trung thành với Nội chiến của các ứng cử viên. Hầu hết những người theo đạo Tin lành miền Bắc và người miền Nam da đen bầu cho Đảng Cộng hòa. Mặt khác, người miền Nam da trắng và người Công giáo miền Bắc thường bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ.
Vấn đề.
Bản vị vàng và thuế quan đối với hàng nhập khẩu đã chia rẽ nội bộ các đảng lớn. Cuộc tranh luận về tiền tệ chủ yếu xoay quanh giá trị của đồng đô la Mỹ. Trước Nội chiến, hầu hết các giao dịch trái phiếu chính phủ vẫn dựa trên việc sử dụng vàng và bạc, song, khi Nội chiến bùng nổ, chi phí cho chiến tranh ngày càng tăng buộc Quốc hội Hoa Kỳ phải phát hành cái được gọi là "đồng bạc xanh". Dù đồng bạc xanh đã giúp chi trả phần nào các khoản dùng cho chiến tranh nhưng nó làm tình trạng lạm phát trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Khi Nội chiến kết thúc, các chủ nợ tại miền Bắc muốn quay trở lại sử dụng vàng và bạc. Tuy nhiên, những con nợ (đặc biệt là ở miền Nam và miền Tây) lại muốn duy trì "đồng bạc xanh" do lạm phát sẽ làm giảm giá trị của đồng đô la Mỹ, từ đó, làm giảm giá trị thực các khoản nợ của họ. Vấn đề này gây ra chia rẽ trong nội bộ các 2 đảng, cuối cùng dẫn đến sự ra đời của Đảng Đồng bạc xanh vào năm 1876. Cuộc tranh luận về tiền tệ trở nên căng thẳng hơn khi Quốc hội ban hành Đạo luật Tiền tệ năm 1873, ngừng lưu thông "đồng bạc xanh" và trở lại sử dụng vàng vào năm 1879. Khi cuộc bầu cử năm 1880 bắt đầu, vàng được sử dụng rộng rãi để chi trả cho các khoản phí tranh cử dù vấn đề về "đồng bạc xanh" vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.
Chính sách thuế quan là nguyên nhân chính dẫn đến xung đột giữa các đảng vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong Nội chiến, Quốc hội đã nâng mức thuế nhập khẩu cao hơn để một phần chi trả cho chiến tranh, một phần là do các bang miền Bắc ủng hộ Liên bang có chính sách thuế quan giống vậy. Mức thuế cao có nghĩa là hàng hóa nước ngoài đắt hơn, giúp các doanh nghiệp nội địa Mỹ bán hàng dễ dàng hơn. Đảng Cộng hòa ủng hộ mức thuế cao như một cách để bảo vệ việc làm của người Mỹ cũng như giúp tăng cường sự thịnh vượng cho đất nước. Trái lại, Đảng Dân chủ lên án điều này là lý do làm giá hàng hóa tăng cao, trong khi lợi nhuận lớn cho chính phủ liên bang là điều không cần thiết sau khi Nội chiến kết thúc. Tuy nhiên, các đảng viên Đảng Dân chủ miền Bắc từ các bang thiên về sản xuất, đặc biệt là ở Pennsylvania, lại ủng hộ mức thuế cao. Để đoàn kết nội bộ đảng, thượng tầng mỗi đảng đều tránh các câu hỏi về vấn đề này càng nhiều càng tốt.
Cuộc bầu cử năm 1876.
Trong cuộc bầu cử năm 1876, Rutherford B. Hayes của Đảng Cộng hòa từ Ohio đã đánh bại Samuel J. Tilden của Đảng Dân chủ từ New York trong một trong những cuộc bầu cử tổng thống tranh cãi nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Kết quả ban đầu cho thấy Đảng Dân chủ giành chiến thắng, nhưng số phiếu đại cử tri của một số bang miền Nam bị tranh chấp gay gắt. Cả hai đảng trong Quốc hội đã đồng ý thành lập Ủy hội Bầu cử mà cuối cùng đã trao toàn bộ số phiếu bị tranh chấp cho Hayes, giúp ông đắc cử Tổng thống.
Đối với các đảng viên Đảng Dân chủ, "cuộc bầu cử bị đánh cắp" đã trở thành một khẩu hiệu phổ biến trong nội bộ Đảng Dân chủ, vốn chiếm đa số trong Hạ viện và đã dành phần lớn thời gian trong năm 1878 để điều tra nó, mặc dù họ không đưa ra được bất kỳ bằng chứng mới nào chống lại kẻ thù Đảng Cộng hòa của họ. Thoạt đầu, Tilden được coi là ứng cử viên hàng đầu để ứng cử Tổng thống năm 1880. Đối với giới thượng tầng Đảng Cộng hòa, lễ nhậm chức của Hayes năm 1877 báo hiệu sự khởi đầu việc tranh giành đề cử của đảng vào năm 1880 do ngay cả trước khi đắc cử, Hayes đã cam kết không tranh cử nhiệm kỳ thứ hai, để ngỏ con đường tái tranh cử vào Nhà Trắng vào năm 1880. Việc lựa chọn Nội các của ông làm phật ý giới thượng tầng của đảng mình, làm Đảng Cộng hòa bị chia rẽ giữa phe ủng hộ Thượng nghị sĩ từ New York Roscoe Conkling và phe ủng hộ Thượng nghị sĩ từ Maine James G. Blaine.
Đề cử.
Các đảng soạn cương lĩnh và đề cử các ứng cử viên của họ tại các đại hội đảng, nhóm họp vào mùa hè trước cuộc bầu cử.
Đề cử của Đảng Cộng hòa.
Đại hội của Đảng Cộng hòa triệu tập lần đầu tại Chicago, Illinois, vào ngày 2 tháng 6. Trong số những người tranh đề cử của Đảng Cộng hòa, ba ứng cử viên nặng ký nhất trước đại hội là cựu Tổng thống Ulysses S. Grant, Thượng nghị sĩ James G. Blaine và Bộ trưởng Ngân khố John Sherman. Grant từng là tướng tư lệnh Lục quân hàng đầu của lực lượng miền Bắc trong Nội chiến, và đã phục vụ 2 nhiệm kỳ tổng thống từ năm 1869 đến năm 1877. Ông đang cố gắng tranh cử nhiệm kỳ thứ 3 chưa từng có tiền lệ. Ông được ủng hộ bởi phe Conkling trong Đảng Cộng hòa, bấy giờ được gọi là phái Stalwarts. Họ phản đối cải cách công vụ, điều mà Tổng thống Hayes hướng đến. Blaine, một thượng nghị sĩ và cựu dân biểu từ Maine, được hỗ trợ bởi phái Half-Breed trong đảng, vốn ủng hộ cải cách công vụ. Sherman, em trai của Tướng William Tecumseh Sherman trong Nội chiến, là cựu thượng nghị sĩ từ Ohio và khi ấy đang phục vụ trong nội các của Hayes. Ông được chống lưng bởi một phe phái nhỏ hơn nhưng không ủng hộ 2 phái lớn.
Trong lần bỏ phiếu đầu tiên, Grant và Blaine lần lượt nhận được 304 và 285 phiếu bầu, trong khi Sherman nhận được 93. Không ứng cử viên nào đến gần với chiến thắng, và nhiều lần bỏ phiếu tiếp diễn để xác định người chiến thắng. Nhiều lần bỏ phiếu khác đã diễn ra, nhưng không có ứng cử viên nào giành chiến thắng. Sau lần phiếu thứ 35, Blaine và Sherman chuyển sang ủng hộ ứng cử viên "ngựa ô" mới, Dân biểu James A. Garfield từ Ohio. Ở lần bỏ phiếu tiếp theo, Garfield được đề cử làm Tổng thống khi giành được 399 phiếu bầu, hầu hết đến từ phái ủng hộ Blaine và Sherman. Để xoa dịu phái Grant, những người ủng hộ Garfield ở Ohio đề nghị Levi P. Morton làm Phó Tổng thống. Morton từ chối sau khi nghe lời khuyên của Conkling. Do đó, họ đề cử Chester A. Arthur, một thành viên của phái Stalwart khác đến từ New York. Conkling cũng khuyên ông từ chối, nhưng ông lại chấp nhận đề cử. Ông được đề cử, và Đại hội toàn quốc kéo dài nhất lịch sử Đảng Cộng hòa bế mạc vào ngày 8 tháng 6 năm 1880.
Đề cử của Đảng Dân chủ.
Cuối tháng đó, Đảng Dân chủ tổ chức đại hội của họ ở Cincinnati, Ohio. 6 người tranh đề cử của đảng và một số người khác nhận được phiếu bầu từ các đại biểu. Trong số này, 2 ứng cử viên hàng đầu là Thiếu tướng Winfield Scott Hancock từ Pennsylvania và Thượng nghị sĩ Thomas F. Bayard từ Delaware. Tilden không chính thức là một ứng cử viên, nhưng ông ấy vẫn có ảnh hưởng rất lớn đối với đại hội. Bản thân Tilden không rõ liệu mình có nên tham gia một cuộc bầu cử nữa hay không, dẫn đến việc một số đại biểu ủng hộ ông quay sang ủng hộ ứng cử viên khác, trong khi những đại biểu khác vẫn trung thành với ông.
Khi đại hội khai mạc, một số đại biểu ủng hộ Bayard, một thượng nghị sĩ bảo thủ, trong khi những người khác ủng hộ Hancock, một quân nhân chuyên nghiệp và anh hùng trong thời Nội chiến. Một số người khác ủng hộ những người mà họ coi là người thay thế cho Tilden, bao gồm Henry B. Payne từ Ohio, luật sư và cựu nghị sĩ, và Samuel J. Randall từ Pennsylvania, Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ. Lần bỏ phiếu đầu tiên bất phân phân thắng bại, với Hancock và Bayard dẫn đầu. Trước lần bỏ phiếu thứ hai, Tilden dương như đã rút khỏi cuộc đua; các đại biểu sau đó chuyển sang ủng hộ Hancock, người sau cùng đã giành được đề cử. William Hayden English, một chính trị gia bảo thủ và doanh nhân đến từ bang Indiana, được đề cử làm Phó Tổng thống.
Đảng nhỏ.
Đại hội Đảng Đồng bạc xanh đã triệu tập tại Chicago vào giữa tháng 6, sử dụng hội trường do Đảng Cộng hòa vừa sử dụng trước đó. Đảng mới tham gia chính trường vào năm 1880, được thành lập sau khi tình trạng suy thoái kinh tế xảy ra sau Khủng hoảng năm 1873, chủ yếu ở miền Tây và miền Nam Hoa Kỳ. Trong Nội chiến, Quốc hội đã cho lưu thông "đồng bạc xanh ", một hình thức tiền có thể mua lại bằng trái phiếu chính phủ, thay vì bằng vàng như truyền thống. Sau chiến tranh, nhiều đảng viên Đảng Dân chủ và Cộng hòa ở miền Đông tìm cách quay trở lại hệ thống bản vị vàng, và chính phủ bắt đầu ngừng lưu thông "đồng bạc xanh". Việc giảm nguồn cung tiền, kết hợp với suy thoái kinh tế, khiến cuộc sống của những con nợ, nông dân và lao động công nghiệp trở nên khó khăn hơn; Đảng Đồng bạc xanh hy vọng sẽ thu hút được sự ủng hộ từ các nhóm này. Ngoài sự ủng hộ của họ đối với một nguồn cung tiền lớn hơn, họ còn ủng hộ ngày làm việc tám giờ cũng như các quy định về an toàn trong các nhà máy và chấm dứt sử dụng lao động trẻ em.
6 người tham gia tranh đề cử của đảng Đồng bạc xanh. James B. Weaver, một dân biểu từ Iowa và là tướng trong Nội chiến, rõ ràng là người được yêu thích nhất, nhưng hai dân biểu khác, Benjamin F. Butler từ Massachusetts và Hendrick B. Wright từ Pennsylvania, cũng có lượng người ủng hộ đáng kể. Weaver giành chiến thắng trong gang tấc khi giành được đa số trong tổng số 850 phiếu bầu của đại biểu trong lần bỏ phiếu đầu tiên. Barzillai J. Chambers, một doanh nhân Texas và là cựu chiến binh cho Liên minh miền Nam, cũng được đề cử làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên. Hỗn loạn hơn cả là cuộc chiến soạn cương lĩnh của đảng, khi các đại biểu từ các phe phái khác nhau của phong trào cánh tả xung đột về vấn đề quyền bầu cử của phụ nữ, người Mỹ gốc Hoa và ngày làm việc tám giờ.
Một đại hội của Đảng Cấm rượu cũng họp vào tháng đó tại Cleveland, Ohio. Những người theo chủ nghĩa Cấm rượu, giống một phong trào hơn là một đảng, tập trung nỗ lực vào việc cấm rượu. Hầu hết đảng viên là những người ngoan đạo, và hầu hết từng là đảng viên Cộng hòa. Chỉ có 12 bang cử đại biểu đến dự đại hội, và cương lĩnh mà họ thông qua im lặng về hầu hết các vấn đề thời đó, thay vào đó tập trung vào tệ nạn sử dụng rượu. Đối với vị trí Tổng thống, những người theo chủ nghĩa Cấm rượu đã đề cử Neal Dow, một vị tướng thời Nội chiến đến từ Maine. Với tư cách là thị trưởng của Portland, Dow đã giúp thông qua "luật Maine", cấm bán rượu trong toàn thành phố; trở thành hình mẫu cho các luật cấm rượu trên khắp đất nước. Cuối cùng, một Đảng Chống Hội Tam điểm vừa tái lập đã đề cử John W. Phelps, một vị tướng khác trong Nội chiến, thông qua cương lĩnh phản đối Hội Tam điểm. Các nhà quan sát chính trị cho rằng Weaver rất ít cơ hội giành chiến thắng, còn Dow và Phelps thì cơ hội bằng không.
Ứng cử viên.
Garfield.
James Abram Garfield lớn lên trong hoàn cảnh khiêm tốn tại một trang trại ở Ohio bởi người mẹ góa bụa của mình. Khi còn trẻ, ông đã làm nhiều công việc khác nhau, kể cả trên lái sà lan. Bắt đầu từ năm 17 tuổi, ông theo học tại Đại học Williams ở Williamstown, Massachusetts, tốt nghiệp năm 1856. Một năm sau, Garfield gia nhập Đảng Cộng hòa. Ông kết hôn với Lucretia Rudolph vào năm 1858, và từng là thành viên của Thượng viện Bang Ohio (1859–1861). Garfield phản đối các bang miền Nam ly khai, từng giữ hàm Thiếu tướng trong Quân đội Liên bang trong Nội chiến, và tham chiến trong các trận Middle Creek, Shiloh và Chickamauga. Năm 1862, ông được bầu làm Dân biểu Hoa Kỳ đại diện cho Khu 19, Ohio. Trong suốt thời gian phục vụ trong Quốc hội sau Nội chiến, ông kiên quyết ủng hộ chế độ bản vị vàng và nổi tiếng là một nhà hùng biện tài ba. Garfield ban đầu đồng ý với quan điểm của đảng viên Cộng hòa cấp tiến về Tái thiết, nhưng sau đó ủng hộ cách giải quyết ôn hòa hơn nhằm thực thi quyền công dân cho các cựu nô lệ.
Sau khi được đề cử, Garfield đã gặp gỡ giới thượng tầng của đảng với nỗ lực hàn gắn sự chia rẽ giữa phái Stalwarts và phái Half-Breed. Trong lá thư chấp nhận đề cử của mình, được viết với lời khuyên từ một số nhà lãnh đạo đảng, ông tán thành ý tưởng về thuế quan cao và bình định giá tiền, nhưng chú ý hơn cả đến vấn đề nhập cư của người Trung Quốc và cải cách công vụ. Với cả hai vấn đề này, Garfield tìm kiếm tiếp cận một cách ôn hòa. Ông kêu gọi hạn chế tuân theo các hiệp định cũ với chính quyền Trung Hoa bằng cách tái đàm phán với họ. Về cải cách công vụ, dù nói rằng ông đồng ý với vấn đề này, nhưng lại hứa sẽ bổ nhiệm người phụ trách vấn đề này với sự tham vấn của giới tinh hoa của đảng, vốn phản đối vấn đề này, một quan điểm mà nhà viết tiểu sử thế kỷ 20 Allan Peskin gọi là "không nhất quán". Theo truyền thống vào thời điểm đó, Garfield trở về nhà của mình trong suốt thời gian diễn ra cuộc bầu cử và để việc vận động tranh cử cho những diễn giả khác của đảng.
Hancock.
Winfield Scott Hancock sinh ra và lớn lên ở Pennsylvania. Ông theo học tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point và phục vụ trong Quân đội trong 4 thập kỷ, bao gồm cả việc tham chiến trong Chiến tranh Mỹ-Mễ và với giữ hàm Thiếu tướng của Liên bang trong Nội chiến. Được các đồng nghiệp trong Lục quân gọi là "Hancock Cao ngạo", ông đặc biệt được chú ý vì khả năng lãnh đạo cá nhân của mình trong Trận Gettysburg năm 1863, nơi ông chỉ huy lực lượng Pickett's Charge và bị thương trong trận này. Ông tiếp tục phục vụ quân sự sau Nội chiến khi tham gia vào Tái thiết quân sự tại miền Nam và hiện diện tại biên giới miền Tây. Trong quá trình Tái thiết, ông đã đứng về phía Tổng thống lúc bấy giờ là Andrew Johnson, ủng hộ rút quân nhanh chóng khỏi miền Nam và cho phép tái lập các chính quyền bang trước chiến tranh. Hancock nổi tiếng với tư cách là một anh hùng chiến tranh tại Gettysburg, hơn nữa còn là một Đảng viên Đảng Dân chủ nổi bật với lòng trung thành sắt đá với Liên bang cũng như quan điểm ủng hộ quyền của các bang, khiến ông trở thành ứng cử viên Tổng thống hoàn hảo cho đảng Dân chủ.
Hancock chính thức được đề cử vào tháng 7. Như Garfield đã làm, ứng cử viên Đảng Dân chủ tìm cách tiếp cận các vấn đề một cách ôn hòa mà không gây tranh cãi, điều mà theo người viết tiểu sử David M. Jordan là "nhạt nhẽo và chung chung". Đảng Cộng hòa đã nắm quyền liên tục từ năm 1860 đến tận thời điểm đó, buộc Hancock phải tìm cách xoa dịu lo ngại rằng một Tổng thống Đảng Dân chủ sẽ đảo ngược kết quả của Nội chiến và Tái thiết, một chiến lược tranh cử phổ biến của Đảng Cộng hòa. Không giống như Garfield, Hancock không có bất kỳ kinh nghiệm nào với các chức vụ dân cử, nhưng lá thư chấp nhận đề cử của ông không cho biết rõ ràng sở thích chính trị của ông. Hancock tiếp tục tại ngũ trong suốt chiến dịch tranh cử tại Đảo Thống đốc ở Cảng New York.
Weaver.
James Baird Weaver sinh ra ở Ohio và chuyển đến Iowa khi còn nhỏ khi gia đình anh đòi một ngôi nhà ở biên giới. Ông bắt đầu hoạt động chính trị khi còn trẻ và là người ủng hộ quyền của nông dân và người lao động, đã từng tham gia và rời bỏ một số đảng phái chính trị để hiện thực hóa lý tưởng của ông. Sau khi phục vụ trong Quân đội Liên bang trong Nội chiến, Weaver trở lại Iowa và làm việc cho chiến dịch tranh cử của các ứng cử viên Đảng Cộng hòa. Sau nhiều nỗ lực không thành công trong việc giành đề cử của Đảng Cộng hòa vào các chức vụ khác nhau và ngày càng không hài lòng với phe bảo thủ của đảng, vào năm 1877, Weaver chuyển sang Đảng Đồng bạc xanh, ủng hộ việc tăng nguồn cung tiền và gia tăng các quy định đối với các doanh nghiệp lớn. Là một đảng viên Đảng đồng bạc xanh, với sự ủng hộ của đảng Dân chủ, Weaver thắng cử vào Hạ viện năm 1878.
Không giống như các ứng cử viên chính của 2 đảng lớn, Weaver, thay vì lui về nhà, đã có nhiều bài phát biểu trên khắp đất nước. Đồng tranh cử của ông, Chambers, cũng làm như vậy, cho đến khi bị ngã từ một chuyến tàu vào tháng 7 khiến ông bị tàn tật trong suốt thời gian của cuộc bầu cử. Vì Đảng Đồng bạc xanh là đảng duy nhất có liên danh tranh cử bao gồm một người miền Nam, ông ấy hy vọng sẽ thắng nhiều bang tại đây. Con đường dẫn đến chiến thắng của Weaver, vốn đã khó xảy ra, lại càng trở nên khó khăn hơn khi ông từ chối phối hợp tranh cử ở các bang mà sức mạnh của cả Đảng Dân chủ và Đồng bạc xanh có thể vượt qua Đảng Cộng hòa. Thông điệp về hòa nhập chủng tộc của đảng ông cũng báo trước khó khăn ở miền Nam, vì những đảng viên Đồng bạc xanh sẽ đối mặt với những trở ngại giống như những gì đảng viên Cộng hòa đã gặp phải khi đối mặt với tình trạng tước quyền bầu cử của người da đen ngày càng gia tăng.
Chiến dịch.
Áo đẫm máu.
Hancock và các đảng viên Đảng Dân chủ dự kiến sẽ giành chiến thắng ở hầu hết các bang Miền Nam cứng rắn, trong khi phần lớn miền Bắc được coi là lãnh thổ an toàn cho Garfield và các đảng viên Cộng hòa; hầu hết chiến dịch sẽ liên quan đến một số bang dao động như New York và Indiana. Các cuộc bầu cử toàn quốc phần lớn được quyết định tại các bang dao động ở New York và Trung Tây. Sự khác biệt về lý tưởng giữa các ứng cử viên của các đảng lớn là rất ít, và các đảng viên Cộng hòa bắt đầu chiến dịch tranh cử với chủ đề quen thuộc, cái mà phe đối lập gọi là "vẫy chiếc áo đẫm máu", nhắc nhở các cử tri miền Bắc rằng Đảng Dân chủ phải chịu trách nhiệm về việc ly khai và 4 năm Nội chiến đẫm máu, và rằng nếu họ nắm quyền, họ sẽ đảo ngược thành quả của cuộc chiến đó, bôi nhọ của các cựu chiến binh Liên bang và trả lương hưu cho binh lính Liên minh từ ngân khố liên bang. Với 15 năm đã trôi qua kể từ khi Nội chiến kết thúc kết hợp với việc các tướng lĩnh của Liên bang đều được đề cử làm Tổng thống từ cả đảng lớn lẫn nhỏ, những vấn đề như lòng trung thành với Liên bang trong thời chiến không còn thu hút cử tri như trước.
Về phần mình, Đảng Dân chủ đã vận động dựa trên sự nghiệp của các ứng cử viên. Họ tấn công Garfield vì mối liên hệ của ông với vụ bê bối Crédit Mobilier của Mỹ vào đầu những năm 1870, trong đó nhiều thành viên Quốc hội đã bị mua chuộc bởi tập đoàn Crédit Mobilier, một công ty xây dựng đường sắt. Liệu Garfield có trực tiếp tham gia hay không vẫn còn là một bí ẩn, nhưng các nhà viết tiểu sử hiện đại đồng ý rằng lời kể của ông rằng ông không liên quan tới tập đoàn này là không hoàn toàn trung thực. Các đảng viên Đảng Dân chủ sử dụng vụ việc như một cách nhằm nâng cao uy tín của Hancock, người, với tư cách là một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp, không tham gia Quốc hội. Ít người trong Đảng Cộng hòa dám trực tiếp chỉ trích "anh hùng của Gettysburg", nhưng họ lập luận rằng Hancock là người không am tường về các vấn đề chính trị, và một số đồng đội cũ của ông ấy đã có những bài phát biểu chỉ trích về tính cách của ông.
Đảng viên Đồng bạc xanh đã nhận thấy tầm quan trọng của lòng trung thành trong Nội chiến sâu sắc hơn cả khi họ tranh giành phiếu bầu ở các bang miền Nam. Weaver bắt đầu chuyến công du miền Nam vào tháng 7 và tháng 8. Mặc dù các đảng Đồng bạc xanh địa phương đã đạt được một số thành công gần đây, nhưng cấp đảng toàn quốc, với một cựu tướng lĩnh của Liên bang và cựu thành viên đảng Cộng hòa đứng đầu, đã vấp phải sự phản đối lớn. Đảng này vẫn cố lôi kéo các cử tri da đen đi bầu, đe dọa của đảng Dân chủ, vốn được những người da trắng ủng hộ, dẫn đến bạo lực, các cuộc biểu tình chống lại Weaver bùng nổ và họ đe dọa sẽ chống lại những người ủng hộ ông. Khi Weaver vận động tranh cử ở miền Bắc vào tháng 9 và tháng 10, các đảng viên Cộng hòa cáo buộc ông cố tình làm chia rẽ sự ủng hộ đối với đảng Cộng hòa để giúp đảng Dân chủ giành chiến thắng ở các bang vùng biên. Weaver còn từ chối phối hợp với các đảng viên Đảng Dân chủ để cùng nhau đánh bại Đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, trong các cuộc đua cấp tiểu bang, các ứng cử viên Đồng bạc xanh thường phối hợp với các ứng cử viên Đảng Dân chủ để đánh bại các ứng cử viên Đảng Cộng hòa. Trong cuộc đua giành chức thống đốc bang vào tháng 9 ở Maine, một liên minh giữa 2 đảng đã đề cử Harris M. Plaisted, người đã đánh bại Thống đốc đương nhiệm đảng Cộng hòa trong gang tấc ở bang được coi là an toàn của đảng. Thất bại bất ngờ đã gây ra một cú sốc cho chiến dịch Garfield, và khiến họ phải suy nghĩ lại về chiến lược "vẫy chiếc áo đẫm máu" của mình.
Thuế quan và nhập cư.
Sau thất bại ở Maine, Đảng Cộng hòa bắt đầu vận động tranh cử dựa trên các khác biệt về chính sách nhiều hơn. Điểm khác biệt lớn nhất giữa họ và Đảng Dân chủ là vấn đề về thuế quan khi Đảng Dân chủ tán thành "chỉ áp dụng thuế quan đối với ngân khố quốc gia". Đó là mức thuế sẽ chỉ được sử dụng để trang trải chi phí của chính phủ liên bang, và không được tăng để hỗ trợ các ngành cụ thể. Các nhà vận động tranh cử của Garfield đã sử dụng tuyên bố này để cho rằng Đảng Dân chủ không thông cảm với hoàn cảnh của những người lao động công nghiệp, nhóm được hưởng lợi từ mức thuế bảo hộ cao. Vấn đề thuế quan đã làm giảm sự ủng hộ đối với đảng Dân chủ ở các bang công nghiệp hóa phía Bắc - các bang quan trọng để quyết định số phận của đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử. Hancock đã làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn khi cố gắng thể hiện lập trường ôn hòa, ông nói "vấn đề thuế quan là vấn đề của địa phương". Mặc dù không hoàn toàn không chính xác—các ưu đãi về thuế quan thường liên quan ít nhiều đến địa phương—nhưng tuyên bố này mâu thuẫn với cương lĩnh của Đảng Dân chủ và làm lộ ra việc Hancock không hiểu vấn đề.
Sự thay đổi trong chiến thuật dường như có hiệu quả, khi các cuộc bầu cử cấp bang vào tháng 10 ở Ohio và Indiana mang lại chiến thắng cho Đảng Cộng hòa, khiến các Đảng viên Đảng Dân chủ lo lắng về cơ hội giành chiến thắng của họ vào tháng sau. Giới tinh hoa Đảng Dân chủ đã chọn English làm đồng tranh cử với Hancock vì ông nổi tiếng ở Indiana. Với thất bại cấp tiểu bang ở đây, một số người đã bàn về việc loại English ra khỏi đề cử Phó Tổng thống, nhưng ông ấy thuyết phục họ rằng trận thua vào tháng 10 là do các vấn đề ở cấp bang nhiều hơn và rằng liên danh của Đảng Dân chủ vẫn có thể thắng Indiana, ngay cả nếu thua ở Ohio, vào tháng 11.
Trong những tuần cuối cùng trước cuộc bầu cử, vấn đề nhập cư của người Hoa đã làm nóng cuộc đua. Cả 2 đảng chính (cũng như Đảng Đồng bạc xanh) đều cam kết trong cương lĩnh của họ là hạn chế nhập cư người Hoa, đây là điều mà dân lao động bản địa ở các bang miền Tây ủng hộ vì càng nhiều người Hoa nhập cư đồng nghĩa tiền lương của họ cũng giảm theo. Tuy nhiên, vào ngày 20 tháng 10, một tờ báo của Đảng Dân chủ đã đăng một bức thư, được cho là của Garfield gửi cho một nhóm doanh nhân, cam kết duy trì mức nhập cư như thời điểm hiện tại để giữ mức lương của công nhân luôn ở mức thấp. Garfield tố cáo bức thư là một âm mưu chính trị, nhưng đã quá muộn vì hơn một trăm nghìn bản sao của tờ báo này đã được công khai tại California và Oregon. Sau khi bức thư bị vạch trần là giả mạo, người viết tiểu sử của Garfield, Peskin tin rằng nó thậm chí có thể mang lại phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa ở miền Đông, nhưng nó có thể làm vị thế của ông suy giảm ở miền Tây.
Kết quả.
Cuộc bầu cử cực kỳ có kết quả rất sát sao, với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu cao bậc nhất lịch sử. Đảng Dân chủ đã nắm chắc chiến thắng tại Miền Nam, cũng như hầu hết các bang vùng biên. Đảng Cộng hòa thắng được vùng Đông Bắc và Trung Tây, giành được các bang dao động quan trọng như New York, Ohio và Indiana. Đảng Cộng hòa đã giành được số phiếu đại cử tri 214 so với 155 của Đảng Dân chủ, nhưng cách biệt tổng phiếu bầu phổ thông là dưới 2000 trên tổng số hơn 9 triệu phiếu bầu được kiểm. Đảng Cộng hòa đã giành được Hạ viện với tỷ số 147–135, nhưng Thượng viện chia đều cho 2 đảng, với Phó Tổng thống bỏ phiếu phá vỡ thế hòa.
Khi tất cả các lá phiếu được kiểm, Garfield và Hancock hơn kém nhau 2.000 phiếu bầu, đây là cách biệt trong phiếu phổ thông sít sao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Các cử tri đã thể hiện mối quan tâm của họ đối với cuộc bầu cử này bằng cách đi bầu với số lượng kỷ lục; 78% cử tri đủ điều kiện đã bỏ phiếu, một trong những tỷ lệ lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Mỗi ứng cử viên của đảng lớn chỉ giành được hơn 48% phiếu bầu. Weaver đã giành được hơn 3%, gấp 3 lần so với tổng số phiếu mà ứng cử viên Đảng Đồng bạc xanh giành được của 4 năm trước đó. Các ứng cử viên của đảng nhỏ khác có kết quả tệ hơn nhiều, khi Dow và Phelps lần lượt giành được 0,1 và 0,01%. Garfield đã thắng bang dao động quan trọng New York với cách biệt 20.000 phiếu bầu trong tổng số 1,1 triệu phiếu bầu ở đó. Các bang khác sít sao hơn nhiều; cách biệt chiến thắng của Hancock ở California chỉ là khoảng 144 phiếu bầu.
Lá phiếu Đại cử tri đoàn dù dựa trên lá phiếu phổ thông ở từng bang nhưng do sử dụng hệ thống "được ăn cả, ngã về không" chứ không sử dụng cách tính tỷ lệ nên có tầm quan trọng hơn lá phiếu phổ thông. Đúng như dự đoán, Hancock đã thắng tất cả các bang miền Nam và vùng biên, trong khi Garfield thắng tất cả các bang còn lại, trừ New Jersey, nơi mà ông thua khi kém Hancock chỉ 2000 phiếu bầu. Cả hai ứng cử viên đều thắng 19 bang, nhưng chiến thắng của Garfield ở miền Bắc đông dân hơn đã đem về chiến thắng cho ông với tỷ số 214–155 đại cử tri đoàn. Sự phân chia phiếu bầu theo khu vực càng củng cố sâu sắc hơn việc Đảng Cộng hòa không thể thắng miền Nam sau Tái thiết, nhưng chứng minh rằng họ có thể giành chiến thắng mà không cần cạnh tranh ở đây. Ngay cả khi Weaver bắt tay với đảng Dân chủ, thì Hancock chỉ thắng thêm Indiana và đảng Cộng hòa vẫn chiếm đa số trong cử tri đoàn. Hancock tin chắc rằng đảng Cộng hòa thắng New York nhờ gian lận. Thiếu bằng chứng và ký ức về hỗn loạn trong cuộc bầu cử gây tranh cãi 4 năm trước đó, Đảng Dân chủ đã không truy tận gốc vấn đề này.
California lần đầu tiên ủng hộ cho người thua đến từ Đảng Dân chủ, điều sẽ không xảy ra nữa cho đến năm 2000. Đảng Cộng hòa sẽ không giành chiến thắng nếu không có New Jersey và Delaware cho đến năm 2000. Nevada cũng lần đầu tiên bỏ phiếu cho ứng cử viên Đảng Dân chủ thua cuộc.
Bất thường.
Tại Virginia, sự chia rẽ trong Đảng Dân chủ về việc thanh toán các khoản nợ của tiểu bang đã dẫn đến việc hai phe phái cùng trong Đảng Dân chủ thực hiện các chiến dịch khác nhau tại đây, một là phái "Funder", ủng hộ trả hết khoản nợ; một là phái "Readjuster", không ủng hộ điều này. Cả 2 phe đều ủng hộ Hancock. Các đảng viên Cộng hòa ban đầu hy vọng sự chia rẽ có thể giúp Garfield giành được bang này, nhưng kết quả lại khác. Readjuster mang về cho Hancock 31.527 phiếu bầu, trong khi chỉ phe Funder đã mang về 96.449 phiếu bầu, đủ để đánh bại Đảng Cộng hòa, chỉ giành 84.020 phiếu bầu.
Mặc dù Hancock đã giành được phần nhiều phiếu phổ thông của Georgia một cách dễ dàng, nhưng có sự bất thường trong số phiếu đại cử tri tại đây. Theo Điều II, Mục 1, khoản 3 của Hiến pháp, "Quốc hội có thể ấn định thời điểm lựa chọn các Đại cử tri, và ngày mà họ sẽ bỏ phiếu; ngày đó sẽ giống nhau trên toàn Hoa Kỳ." Năm 1792, Quốc hội ấn định ngày Đại cử tri đoàn sẽ bỏ phiếu vào thứ Tư đầu tiên của tháng 12, ngày này vào năm 1880 rơi vào ngày 1 tháng 12. Tuy nhiên, các đại cử tri Georgia đã không bỏ phiếu vào ngày 1 tháng 12, thay vào đó bỏ phiếu vào thứ Tư tuần sau, ngày 8 tháng 12. Quốc hội, sau đó, vẫn kiểm phiếu bầu của Georgia; nếu họ không làm như vậy, số phiếu đại cử tri của Hancock sẽ giảm xuống 144 chứ không phải 155.
Tiểu bang sít sao.
Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (15 phiếu đại cử tri):
Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (131 phiếu đại cử tri)
Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 5% và 10% (58 phiếu đại cử tri)
Hậu bầu cử.
Khi Garfield nhậm chức vào tháng 3 năm 1881, sự chia rẽ của đảng Cộng hòa trước đó được hàn gắn một lần nữa tan rã. Garfield bổ nhiệm Blaine vào nội các, và phái Stalwart của Conkling trở nên khó chịu vì họ không có sự bảo trợ từ Tổng thống, ngay cả ở bang New York, quê hương của Conkling. Garfield đã bổ nhiệm William H. Robertson, một người ủng hộ cải cách công vụ, vào vị trí béo bở nhất trong chính quyền New York, và từ chối rút lại sự bổ nhiệm này bất chấp sự phản đối của Conkling; để đáp lại, Conkling và các đồng minh của ông đã đóng băng mọi quy trình lập pháp trong Thượng viện đang chia đều cho 2 đảng. Vào tháng 5, Conkling và Thượng nghị sĩ New York Thomas C. Platt từ chức khỏi Thượng viện để phản đối. Hai người thuộc phái Stalwart kỳ vọng cơ quan lập pháp New York sẽ bầu lại họ vào Thượng viện như một cách để cho thấy New York ủng hộ họ; dẫu vậy, cơ quan lập pháp bế tắc trong nhiều tháng, cuối cùng từ chối đưa 1 trong 2 người trở lại Thượng viện. Tuy nhiên, trước khi kết quả đó được thông cáo rộng rãi, Charles Guiteau, một người đàn ông tâm thần không ổn định tức giận vì thất nghiệp, đã bắn Garfield ở Washington, DC, vào ngày 2 tháng 7 năm 1881.
Garfield vẫn sống sót thêm tháng trước khi qua đời vào ngày 19 tháng 9 năm 1881. Phó Tổng thống Chester A. Arthur, thành viên phái Stalwart từ New York, tuyên thệ nhậm chức kế nhiệm tổng thống vào đêm đó. Việc Garfield bị sát hại bởi một kẻ thất nghiệp đã tăng bật sự cần thiết của cải cách công vụ—và Arthur, dù là thành viên ủng hộ Conkling, ủng hộ cải cách công vụ. Năm 1883, đa số lưỡng đảng trong Quốc hội đã thông qua Đạo luật Cải cách Công vụ Pendleton để cải cách hệ thống tìm việc, và Arthur đã ký dự luật này thành luật.
Quốc hội cũng giải quyết vấn đề người Hoa nhập cư, thông qua Đạo luật bài người Hoa năm 1882. Arthur ban đầu phủ quyết đạo luật này, mà ông tin rằng sẽ mâu thuẫn với hiệp ước giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nhưng cuối cùng đã ký một dự luật thỏa hiệp, cấm nhập cư người Hoa nhưng chỉ trong trong vòng 10 năm Thuế quan, một vấn đề chính trong suốt cuộc bầu cử, hầu như không thay đổi trong 4 năm sau đó, mặc dù Quốc hội đã thông qua một sửa đổi nhỏ sau đó. Sau nỗ lực nửa vời trong việc tìm kiếm đề cử vào năm 1884, Arthur về hưu và qua đời hai năm sau đó.
Thư mục.
Sách
Bài báo |
19,822,133 | 479787 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822133 | 1989 (định hướng) | 1989 là một năm theo lịch Gregorius.
1989 còn có thể là: |
19,822,135 | 479787 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822135 | Taylor's Version | <ns>0</ns>
<revision>
<timestamp>2023-08-18T10:01:47Z</timestamp>
<contributor>
<username>Khanh Nguyen</username>
</contributor>
<comment>Đổi hướng đến Tranh cãi quyền sở hữu tác phẩm của Taylor Swift</comment>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format> |
19,822,137 | 383003 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822137 | Khuon Sodary | Khuon Sodary (tiếng Khmer: ឃួន សុដារី; sinh ngày 8 tháng 11 năm 1952) là một chính trị gia người Campuchia. Bà là Đại biểu Quốc hội của tỉnh Kandal và là Phó Chủ tịch Quốc hội thứ hai lần thứ nhất từ năm 2012 đến năm 2014 và lần hai từ năm 2018 đến năm 2023. Bà sẽ đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội vào năm 2023. |
19,822,146 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822146 | Khai Thành thạch kinh | Khai Thành thạch kinh (開成石經) hoặc thạch kinh thời Đường là một nhóm mười hai tác phẩm kinh điển Nho giáo thời kỳ đầu của Trung Quốc được chạm khắc trên bia đá theo lệnh của Đường Văn Tông vào năm 833–837 niên hiệu Khai Thành thời Đường để làm tài liệu tham khảo cho giới học giả. Các tác phẩm được ghi nhận gồm:
Các tác phẩm kinh điển này với hơn 650.000 chữ Hán khắc hai mặt trên 114 phiến đá hiện được bảo quản trong Bảo tàng Bi Lâm ở Tây An, Trung Quốc. Được nhiều người coi là cuốn sách nặng nhất thế giới, những tấm bảng này cũng là một trong những bản sao hoàn chỉnh nhất của những tài liệu quan trọng về văn hóa Trung Quốc từng tồn tại.
Kinh điển Nho giáo bằng đá khác.
Kinh điển Nho giáo đã nhiều lần được khắc trên bia đá. "Hy Bình thạch kinh" hay "thạch kinh thời Hán" được thành lập tại nhà Thái học bên ngoài Lạc Dương vào năm 175–183. Khoảng 200.000 chữ Hán được khắc trên 46 tấm bia, bao gồm văn bản của bảy bộ kinh được công nhận vào thời điểm đó: "Kinh Dịch", "Kinh Thư", "Kinh Thi", "Lễ ký", "Kinh Xuân Thu", "Hiếu kinh" và "Luận ngữ". Chỉ còn sót lại một vài mảnh vỡ của những viên đá này. Kinh "Chính trị" () năm 241 ghi lại ba bộ kinh này bằng ba chữ in, nhưng những kinh điển này đã biến mất kể từ đó.
Những bộ thạch kinh này bao gồm "Quảng chính" () (944), "Gia hữu" () (1061) và Thái học (1131). Suốt thời Tống, "Mạnh Tử" cũng được công nhận là một phần của tác phẩm kinh điển Nho giáo, tạo ra thập tam kinh. Nó còn nằm trong các bản khắc in vào năm 1789 dưới thời Càn Long nhà Thanh, thêm 30.000 chữ nữa trên 17 bảng khắc in. Bộ hoàn chỉnh gồm 190 bản khắc in chứa hơn 630.000 chữ được lưu giữ trong Khổng miếu, Bắc Kinh. |
19,822,147 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822147 | Khai Nguyên tạp báo | Khai Nguyên tạp báo (), là ấn phẩm chính thức xuất hiện lần đầu tiên trong niên hiệu Khai Nguyên thời Đường. Nó được mô tả là tờ báo viết hoặc công báo đầu tiên của Trung Quốc, và cũng là tờ tạp chí đầu tiên trên thế giới. Những người đặt mua tờ báo này chủ yếu là giới quan lại triều đình. Những tin tức chính trị, thời sự trong nước hàng ngày đều được biên tập viên sưu tầm, người viết thuê chép lại để gửi đi các tỉnh. Báo được in bằng tay trên lụa và xuất hiện trong khoảng thời gian từ năm 713 đến năm 734. |
19,822,148 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822148 | Thái Bình hoàn vũ ký | Thái Bình hoàn vũ ký (), hoặc "Địa lý phổ quát niên hiệu Thái Bình [976–983]," là chuyên khảo địa lý do học giả Nhạc Sử biên soạn dưới thời vua Tống Thái Tông nhà Bắc Tống. Toàn sách gồm 200 quyển, có chứa những mục từ viết về hầu hết các khu vực của Trung Quốc vào thời điểm xuất bản, hoàn chỉnh với địa danh và từ nguyên của chúng. Tác phẩm này nói chung tuân theo hệ thống phân định địa lý và hành chính thời Đường, chia Trung Quốc thành 13 "đạo" (), sau đó chia nhỏ hơn nữa thành các "châu" () và "huyện" () mang tính truyền thống hơn. Bởi vì phần lớn dựa trên các tác phẩm đời Đường, nên nó tạo thành một nguồn dữ liệu quan trọng cho việc nghiên cứu địa lý thời kỳ này.
"Thái Bình hoàn vũ ký" thường ghi chép lại dân số tại các địa điểm, địa danh đáng chú ý và cấu trúc tôn giáo hoặc nghi lễ, phong tục tập quán và thông tin lịch sử cơ bản, đôi khi thêm thắt các chi tiết không có trong "Sử ký" của Tư Mã Thiên. Nó cũng đặt ra xu hướng bao gồm tiểu sử, trích dẫn văn học và nguồn tài liệu khác trong các tác phẩm địa lý của Trung Quốc. |
19,822,149 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822149 | Thái Bình ngự lãm | Thái Bình ngự lãm (), là bách khoa toàn thư khổng lồ về "loại thư" của Trung Quốc do một nhóm học giả biên soạn từ năm 977 đến năm 983. Bộ sách này được triều đình nhà Tống chỉ đạo việc biên soạn vào đầu thời Tống Thái Tông. Toàn sách được chia thành 1.000 tập và 55 phần, gồm khoảng 4,7 triệu chữ Hán. Nó thu thập trích dẫn từ khoảng 2.579 loại tài liệu khác nhau trải dài từ sách, thơ, ca dao, tục ngữ, bia ký cho đến các tác phẩm khác. Sau khi hoàn thành, Tống Thái Tông đã đọc xong bộ sách này chỉ trong vòng một năm với 3 tập mỗi ngày. "Thái Bình ngự lãm" được coi là một trong "Tống tứ đại thư".
Nhóm biên soạn "Thái Bình ngự lãm" bao gồm: Thang Duyệt (湯悅), Trương Kị (張洎), Từ Huyền (徐鉉), Tống Bạch (宋白), Từ Dụng Tân (徐用賓), Trần Ngạc (陳鄂), Ngô Thục (吳淑), Thư Nhã (舒雅), Lã Văn Trọng (吕文仲), Nguyễn Tư Đạo (阮思道), Hỗ Mông (扈蒙), Lý Phưởng (李昉) và những người khác.
Đây là một trong những nguồn tài liệu được giới học giả thời Minh Thanh sử dụng để tái tạo lại cuốn "Kinh Sở tuế thời ký" bị thất truyền.
Bản thảo quan trọng.
Một bản sao như vậy của "Thái Bình ngự lãm" được cất giữ tại chùa Tōfuku-ji ở Kyoto, Nhật Bản. Năm 1244, Enni được triều đình nhà Tống chấp thuận cho mang về 103 tập sách này, và sau đó, thêm 10 tập nữa được đưa vào lưu hành trong giới tăng sĩ nơi đây. 103 tập hiện được xếp vào loại Bảo vật Quốc gia Nhật Bản. |
19,822,150 | 832640 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822150 | Giáo phận Bắc Hải | Giáo phận Bắc Hải (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Trung Quốc, nằm trong Giáo tỉnh Quảng Châu với tòa giám mục đặt tại địa cấp thị Bắc Hải (Quảng Tây). |
19,822,154 | 832640 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822154 | Giáo phận Chanthaburi | Giáo phận Chanthaburi (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền đông nam Thái Lan. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Bangkok.
Địa giới.
Địa giới giáo phận bao gồm các tỉnh Chanthaburi, Chonburi, Prachinburi, Rayong, Sa Kaeo, Trat, và phần phía đông sông Bang Pa Kong nằm trong các tỉnh Chachoengsao và Nakhon Nayok ngoại trừ huyện Ban Na.
Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội của giáo phận được đặt tại thị xã Chanthaburi.
Giáo phận được chia thành 41 giáo xứ.
Lịch sử.
Năm 1711, một nhà nguyện truyền giáo đã được xây dựng tại Chanthaburi. Sau khi được xây lại bốn lần và mở rộng thành một nhà thờ năm 1859 để phục vụ cộng đồng người Công giáo Việt Nam tới lánh nạn và định cư vì chính sách cấm đạo tại Đàng Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, đến năm 1909, nhà thờ được xây lại theo kiến trúc Gothic và cho đến nay đây vẫn là nhà thờ lớn nhất Thái Lan. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các ngọn tháp được tháo xuống để tránh việc nhà thờ được dùng làm điểm đánh dấu hỗ trợ máy bay ném bom của quân Đồng minh, và sau đó ngọn tháp mới đã được thay thế vào.
Hạt Đại diện Tông tòa Chantaburi được thành lập vào ngày 11/5/1944 theo tông sắc "Quo in Thailändensi" của Giáo hoàng Piô XII, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Bangkok (nay là Tổng giáo phận Bangkok).
Vào ngày 18/12/1965 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc "Qui in fastigio" của Giáo hoàng Phaolô VI.
Vào ngày 2/7/1969 giáo phận đã đổi tên thành Giáo phận Chanthaburi như hiện tại theo nghị định "Cum Excellentissimus" của Bộ Truyền giáo.
Giám mục quản nhiệm.
Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ.
Thống kê.
Đến năm 2021, giáo phận có 55.806 giáo dân trên dân số tổng cộng 5.107.898, chiếm 1,1%. |
19,822,159 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822159 | Sor Rotana | Sor Rotana (sinh ngày 9 tháng 10 năm 2002), là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Campuchia thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Visakha tại giải bóng đá Ngoại hạng Campuchia và đội tuyển bóng đá quốc gia Campuchia. |
19,822,163 | 686003 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822163 | Lịch sử Krym | Lịch sử thành văn của bán đảo Krym, từng có tên là "Tauris", "Taurica" (), và "Chersonese Taurica" ("bán đảo Taurica"), bắt đầu vào khoảng thế kỷ 5 TCN khi một số thuộc địa của người Hy Lạp được thành lập dọc theo bờ biển của bán đảo, quan trọng nhất trong số này là Chersonesos gần Sevastopol hiện nay, còn người Scythia và Tauri sống tại vùng nội địa ở phía bắc. Duyên hải phía Nam dần hợp nhất thành Vương quốc Bosporus, sau đó bị Pontus sáp nhập và rồi trở thành một vương quốc chư hầu của La Mã (63 TCN – 341). Duyên hải phía Nam vẫn theo văn hoá Hy Lạp trong gần hai nghìn năm, bao gồm dưới thời các nhà nước kế tục của La Mã là Đế quốc Byzantine (341–1204), Đế quốc Trebizond (1204–1461), và Thân vương quốc Theodoro (kết thúc 1475) độc lập. Trong thế kỷ 13, một số thành phố cảng của Krym nằm dưới quyền kiểm soát của Venezia và của Genova, nhưng phần nội địa thì kém ổn định hơn nhiều, phải hứng chịu một loạt các cuộc chinh phục và xâm lăng kéo dài. Trong thời kỳ Trung cổ, bán đảo bị Kiev Rus' chinh phục một phần, Thân vương Vladimir Vĩ đại được rửa tội tại Sevastopol, đánh dấu khởi đầu Cơ Đốc giáo hoá Kiev Rus'. Khi người Mông Cổ xâm chiếm châu Âu, phần phía bắc và giữa của Krym rơi vào tay Hãn quốc Kim Trướng, và đến thập niên 1440 thì Hãn quốc Krym hình thành sau khi Kim Trướng sụp đổ nhưng nhanh chóng trở thành nước phụ thuộc của Đế quốc Ottoman, đế quốc này cũng chinh phục các khu vực duyên hải vốn dĩ độc lập với Hãn quốc Krym. Một nguồn góp phần vào sự phồn vinh trong những thời kỳ này là từ việc thường xuyên đột kích vào Nga để bắt nô lệ.
Năm 1774, Đế quốc Ottoman chiến bại trước Đế quốc Nga dưới quyền Yekaterina Đại đế. Hiệp định Küçük Kaynarca buộc Sublime Porte công nhận người Tatar Krym độc lập về chính trị. Nữ hoàng Nga ra lệnh hợp nhất Krym vào năm 1783. Do đánh bại Đế quốc Ottoman nên sức mạnh của Đế quốc Nga gia tăng tại khu vực Biển Đen. Krym là lãnh thổ Hồi giáo đầu tiên tuột khỏi quyền bá chủ của sultan Ottoman. Từ năm 1853 đến năm 1856, vị trí chiến lược của bán đảo trong việc kiểm soát Biển Đen khiến đây là nơi diễn ra các cuộc giao tranh chính trong Chiến tranh Krym, kết quả là Nga thất bại trước liên quân do Pháp lãnh đạo.
Trong Nội chiến Nga, Krym qua tay nhiều thế lực và là nơi quân Bạch vệ chống Bolshevik của Wrangel nắm giữ cuối cùng vào năm 1920, và hàng chục nghìn quân ở lại bị sát hại trong Khủng bố Đỏ. Năm 1921, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa tự trị Krym được thành lập với vị thế là nước Cộng hòa thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Krym bị Đức chiếm đóng cho đến năm 1944. CHXHCNXV Tự trị Krym bị hạ cấp thành một tỉnh trong CHXHCNXV Liên bang Nga vào năm 1945 sau khi chế độ Liên Xô thanh lọc người Tatar Krym. Năm 1954, Krym được chuyển giao cho CHXHCNXV Ukraina trong dịp kỷ niệm 300 năm Thoả thuận Pereyaslav, được gọi là "tái thống nhất Ukraina với Nga" vào thời Liên Xô.
Sau khi Liên Xô tan rã, Cộng hòa Krym được hình thành vào năm 1992, nhưng bị bãi bỏ vào năm 1995. Cộng hòa Tự trị Krym được thành lập với thẩm quyền vững chắc của Ukraina, và Sevastopol là một thành phố có vị thế đặc biệt. Một hiệp định phân chia Hạm đội Biển Đen của Liên Xô, cho phép Nga tiếp tục đặt hạm đội của họ tại Sevastopol với thời hạn thuê được kéo dài vào năm 2010. Năm 2014, Cộng hòa Krym tuyên bố độc lập từ Ukraina sau một cuộc trưng cầu dân ý gây tranh cãi. Nga sau đó chính thức sáp nhập Krym, nhưng hầu hết quốc gia công nhận Krym là bộ phận của Ukraina.
Tiền sử.
Bằng chứng khảo cổ học về việc loài người định cư tại Krym có niên đại từ thời đại đồ đá giữa. Các hài cốt người Neanderthal được tìm thấy trong hang Kiyik-Koba có niên đại từ khoảng 80.000 năm trước. Sự chiếm giữ muộn của người Neanderthal cũng được tìm thấy tại Starosele (khoảng 46.000 năm trước) và Buran Kaya III (khoảng 30.000 năm trước).
Các nhà khảo cổ học tìm thấy một vài trong các hài cốt người hiện đại về mặt giải phẫu cổ nhất tại châu Âu trong hang Buran-Kaya thuộc dãy núi Krym (phía đông của Simferopol). Các hoá thạch có niên đại từ 32.000 năm trước, với những hiện vật có liên hệ đến văn hoá Gravettia.
Trong Cực đại băng hà cuối cùng, cùng với bờ biển phía bắc Biển Đen nói chung, Krym là một nơi lánh nạn quan trọng và từ đây trung-bắc châu Âu được tái định cư. Đồng bằng Đông Âu trong thời kỳ này nói chung là các môi trường vùng đất băng giá-hoàng thổ-thảo nguyên, dù khí hậu đã ấm hơn một chút trong một vài khoảng ngắn ngủi và bắt đầu ấm đáng kể sau khi bắt đầu Cực đại băng hà cuối cùng. Mật độ chiếm giữ di chỉ loài người tương đối cao tại khu vực Krym và tăng lên ngay từ khoảng 16.000 năm trước.
Những người ủng hộ giả thuyết đại hồng thủy Biển Đen tin rằng Krym đã không trở thành một bán đảo cho đến tương đối gần đây, là do sự gia tăng mực nước Biển Đen vào thiên niên kỷ thứ 6 TCN.
Giai đoạn bắt đầu thời đại đồ đá mới tại Krym không gắn liền với nông nghiệp, thay vào đó là với bắt đầu sản xuất đồ gốm, những thay đổi trong công nghệ chế tạo công cụ đá lửa, và thuần hoá lợn tại địa phương. Bằng chứng sớm nhất về việc chọn lọc lúa mì tại bán đảo Krym là từ di chỉ Ardych-Burun thời đại đồ đồng đá, có niên đại từ giữa thiên niên kỷ 4 TCN
Đến thiên niên kỷ 3 TCN, văn hoá Yamna hay "hầm mộ" đã vươn đến Krym, được cho là tương ứng với giai đoạn muộn của nền văn hóa Ấn-Âu nguyên thủy trong giả thuyết Kurgan.
Cổ điển.
Tauri và Scythia.
Trong thời đại đồ sắt sớm, có hai nhóm người định cư tại Krym được tách biệt bởi dãy núi Krym, là người Tauri ở phía nam và người Scythia thuộc nhóm Iran ở phía bắc.
Người Tauri hòa trộn với người Scythia bắt đầu từ cuối thế kỷ 3 TCN, họ được gọi là "Tauroscythia" và "Scythotauri" trong các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp cổ đại. Trong Geographica, Strabo đề cập người Tauri là một bộ lạc Scythia. Tuy nhiên, Herodotus nói rằng các bộ lạc Tauri về mặt địa lý cư trú bên cạnh người Scythia, nhưng họ không phải là người Scythia. Ngoài ra, người Tauri đã truyền cảm hứng cho các thần thoại Hy Lạp về Iphigenia và Orestes.
Người Hy Lạp cuối cùng thành lập các thuộc địa tại Krym trong thời đại cổ phong, họ nhìn nhận người Tauri là một dân tộc man di, hiếu chiến. Thậm chí sau nhiều thế kỷ người Hy Lạp và La Mã định cư, người Tauri không bị họ bình định và tiếp tục tham gia việc cướp biển trên Biển Đen. Đến thế kỷ 2 TCN, họ trở thành thần tử-đồng minh của Quốc vương Scythia Scilurus.
Vùng đất ở phía bắc của dãy núi Krym là nơi các bộ lạc Scythia chiếm giữ, trung tâm của họ là thành phố Neapolis thuộc Scythia tại ngoại vi Simferopol hiện nay. Thị trấn cai trị một vương quốc nhỏ bao phủ vùng đất giữa hạ du sông Dnepr (Dnipro) và Krym. Trong thế kỷ 3 và 2 TCN, Neapolis thuộc Scythia là một thành phố "với cư dân Scythia-Hy Lạp hỗn hợp, tường phòng thủ vững mạnh và các toà nhà công cộng lớn được xây dựng theo trật tự của kiến trúc Hy Lạp". Thành phố cuối cùng bị người Goth phá hủy vào giữa thế kỷ 3.
Khu định cư Hy Lạp.
Người Hy Lạp cổ đại là những người đầu tiên đặt tên khu vực là "Taurica" theo tên người Tauri. Do người Tauri chỉ cư trú tại vùng núi phía nam của Krym nên tên gọi Taurica ban đầu được sử dụng chỉ cho phần phía nam này, nhưng sau đó được mở rộng cho toàn bộ bán đảo.
Các thành bang Hy Lạp bắt đầu thành lập các thuộc địa dọc bờ biển Đen của Krym vào thế kỷ 7 hoặc 6 TCN. Theodosia và Panticapaeum được Miletus thành lập. Đến thế kỷ 5 TCN, người Doria từ Heraclea Pontica lập cảng biển Chersonesos (nay là Sevastopol).
Đế quốc Achaemenes Ba Tư dưới quyền Darius I bành trướng đến Krym trong các chiến dịch của ông nhằm chống lại người Scythia vào năm 513 TCN.
Năm 438 TCN, Archon (người cai trị) của Panticapaeum nhận tước hiệu Quốc vương Bosporus Cimmeria, là một nhà nước duy trì quan hệ mật thiết với Athens, cung cấp cho thành phố lúa mì, mật ong và các mặt hàng khác. Người cuối cùng của dòng dõi quốc vương này là Paerisades V, ông bị người Scythia chèn ép, phải đặt mình dưới quyền bảo hộ của Mithridates VI, quốc vương của Pontus, vào năm 114 TCN. Sau khi ông mất, con trai ông là Pharnaces II, được Pompey đầu tư với Vương quốc Bosporus Cimmeria vào năm 63 TCN, như một phần thưởng vì đã trợ giúp cho người La Mã trong chiến tranh chống lại cha ông. Năm 15 TCN, tước hiệu lại được khôi phục thành quốc vương của Pontus, nhưng từ đó được xếp là một nước triều cống của La Mã.
Đế quốc La Mã.
Đến thế kỷ 2 TCN, phần phía đông của Taurica trở thành bộ phận của Vương quốc Bosporus, trước khi nó trở thành một vương quốc triều cống của Đế quốc La Mã vào thế kỷ 1 TCN.
Trong các thế kỷ 1, 2, 3, Taurica có các binh đoàn và thực dân La Mã tại Charax, Krym. Thuộc địa Charax được thành lập dưới thời Vespasius với ý định bảo vệ Chersonesos và các cửa hàng mậu dịch Bosporus khỏi người Scythia. Thuộc địa La Mã được bảo vệ bởi một vexillatio của Legio I Italica; nó cũng có một biệt đội của Legio XI Claudia vào cuối thế kỷ 2. Trại bị người La Mã từ bỏ vào giữa thế kỷ 3. Tỉnh thực tế này thuộc quyền kiểm soát bởi legatus của một trong các binh đoàn đóng tại Charax.
Trong suốt các thế kỷ sau đó, Krym bị xâm chiếm hoặc chiếm đóng liên tiếp bởi người Goth (250), người Hun (376), người Bulgar (thế kỷ 4–8), người Khazar (thế kỷ 8).
Tiếng Goth Krym là một ngôn ngữ Đông German, được người Goth Krym nói tại một số địa điểm biệt lập tại Krym cho đến cuối thế kỷ 18.
Thời Trung cổ.
Rus' và Byzantium.
Đến thế kỷ 9, Byzantium thành lập thema Cherson để phòng thủ chống lại các vụ xâm nhập của Hãn quốc Rus'. Bán đảo Krym từ thời điểm này là nơi tranh giành giữa Byzantium, Rus' và Khazaria. Khu vực vẫn là nơi có các lợi ích chồng chéo, và có liên hệ với các vùng ảnh hưởng Slav, Turk và Hy Lạp thời kỳ đầu trung cổ.
Bán đảo trở thành một trung tâm về mua bán nô lệ. Người Slav bị bán đến Byzantium và những nơi khác tại Anatolia và Trung Đông trong giai đoạn này.
Vào giữa thế kỷ 10, Thân vương Sviatoslav I của Kiev chinh phục khu vực phía đông của Krym, và nó trở thành một phần của Thân vương quốc Tmutarakan của Kiev Rus'. Kiev Rus' giành lấy bán đảo từ Byzantine trong thế kỷ 10; tiền đồn lớn của Byzantine là Chersonesus bị chiếm vào năm 988. Một năm sau, Đại thân vương Vladimir của Kiev chấp thuận kết thân với Hoàng đế Basil II bằng cách kết hôn với em gái ông ta là Anna, và được rửa tội bởi các linh mục Byzantine địa phương tại Chersonesus, do vậy đánh dấu việc Rus' bước vào thế giới Cơ Đốc giáo. Nhà thờ chính toà Chersonesus đánh dấu vị trí của sự kiện lịch sử này.
Trong quá trình Byzantine sụp đổ, một số thành phố rơi vào tay chủ nợ là Cộng hòa Genova, thế lực này cũng chinh phục các thành phố do kình địch là Cộng hòa Venezia kiểm soát. Trong toàn bộ giai đoạn này, các khu vực đô thị nói tiếng Hy Lạp và theo Cơ Đốc giáo Đông phương.
Thảo nguyên Krym.
Trong suốt giai đoạn cổ đại và trung đại, vùng nội địa và phía bắc của Krym bị chiếm đóng bởi các nhóm du mục thảo nguyên xâm lăng khác nhau, như
người Tauri, người Cimmeria, người Scythia, người Sarmatia, người Goth Krym, người Alan, người Bulgar, người Hun, người Khazar, người Kipchak và người Mông Cổ.
Vương quốc Bosporus từng thực thi một số quyền kiểm soát đối với phần lớn bán đảo khi đạt đỉnh cao quyền lực, còn Kiev Rus' cũng có một số quyền kiểm soát vùng nội địa Krym sau thế kỷ 10.
Mông Cổ xâm chiếm và hậu kỳ Trung cổ.
Các lãnh thổ hải ngoại của Trebizond là Perateia đã chịu áp lực từ người Genova và người Kipchak vào thời điểm Alexios I của Trebizond mất vào năm 1222, trước khi người Mông Cổ xâm lược về phía tây qua Volga Bulgaria vào năm 1223.
Kiev Rus' mất quyền kiểm soát vùng nội địa Krym vào đầu thế kỷ 13 do Mông Cổ xâm lược. Vào mùa hè năm 1238, Batu Khan tàn phá bán đảo Krym và bình định Mordovia, tiến đến Kiev vào năm 1240. Vùng nội địa Krym nằm dưới quyền kiểm soát của Hãn quốc Kim Trướng của người Turk-Mông Cổ từ năm 1239 đến năm 1441. Tên gọi "Krym" có nguồn gốc từ tên của thủ phủ tỉnh của Hãn quốc Kim Trướng, thành phố này hiện gọi là Staryi Krym.
Perateia của Trebizond trở thành Thân vương quốc Theodoro và Gazaria thuộc Genova, lần lượt chia sẻ quyền kiểm soát phía nam Krym cho đến khi Ottoman can thiệp vào năm 1475.
Vào thế kỷ 13, Cộng hòa Genova đoạt được các khu định cư mà kình địch của họ là Cộng hòa Venezia xây dựng lên dọc bờ biển Krym và tự lập tại Cembalo (nay là Balaklava), Soldaia (Sudak), Cherco (Kerch) và Caffa (Feodosiya), giành quyền kiểm soát kinh tế Krym và thương mại Biển Đen trong hai thế kỷ. Genova và các thuộc địa của họ chiến đấu một loạt cuộc chiến với các nhà nước Mông Cổ từ thế kỷ 13 đến 15.
Năm 1346, Hãn quốc Kim Trướng bao vây Kaffa (nay là Feodosiya) của Genova, khi đó họ bắn các thi thể chiến binh Mông Cổ thiệt mạng do dịch bệnh vào trong tường thành. Các sử gia suy đoán rằng những người tị nạn Genova từ cuộc giao tranh này có thể đã đưa Cái chết Đen đến Tây Âu.
Hãn quốc Krym (1443–1783).
Sau khi Hãn quốc Kim Trướng suy sụp, người Tatar Krym thành lập một Hãn quốc Krym độc lập dưới quyền Hacı I Giray (một hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn) vào năm 1443. Hacı I Giray và những người kế vị của ông ban đầu cai trị tại Qırq Yer, và sau đó chuyển đến Bakhchisaray.
Người Tatar Krym kiểm soát các thảo nguyên trải rộng từ Kuban đến sông Dniester, nhưng họ không thể đoạt quyền kiểm soát các thị trấn thương mại của người Genova tại Krym. Sau khi người Tatar Krym yêu cầu giúp đỡ từ Đế quốc Ottoman, dưới quyền lãnh đạo của Gedik Ahmed Pasha cường quốc này tiến hành xâm chiếm các thị trấn của Genova vào năm 1475, đưa Kaffa và các thị trấn mậu dịch khác nằm dưới quyền kiểm soát của họ.
Sau khi chiếm được các thị trấn của Genova, Sultan Ottoman bắt giam Hãn Meñli I Giray, sau đó phóng thích ông để đổi lấy việc chấp thuận quyền bá chủ của Ottoman đối với các hãn Krym, và Ottoman cho phép họ cai trị với thân phận thân vương triều cống của Đế quốc Ottoman.<ref name="blacksea-crimea/hist"></ref> Tuy nhiên, các hãn Krym vẫn có quyền tự trị cao, và tuân theo các quy tắc mà họ nghĩ là tốt nhất cho mình.
Người Tatar Krym tiến hành các cuộc đột kích vào các vùng đất Ukraina (Cánh đồng hoang), khi đó họ bắt giữ nô lệ để bán. Từ năm 1450 đến năm 1586, 86 cuộc đột kích của người Tatar được ghi lại, và con số từ năm 1600 đến năm 1647 là 70. Trong thập niên 1570, gần 20.000 nô lệ mỗi năm được đưa đến bán tại Kaffa.
Các nô lệ và người được tự do chiếm khoảng 75% dân số Krym. Năm 1769, một cuộc đột kích lớn cuối cùng của người Tatar diễn ra trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1768-1774, ghi nhận bắt giữ 20.000 nô lệ.
Xã hội Tatar.
Người Tatar Krym là dân tộc chi phối Hãn quốc Krym. Họ bắt nguồn từ một sự hòa trộn phức tạp của các dân tộc Turk định cư tại Krym từ thế kỷ 8, có lẽ cũng hấp thụ tàn dư của người Goth Krym và người Genova. Về mặt ngôn ngữ, người Tatar Krym có liên hệ với người Khazar, những người xâm chiếm Krym vào giữa thế kỷ 8; tiếng Tatar Krym là bộ phận của nhánh Kipchak hay Tây bắc của ngữ hệ Turk, nhưng nó thể hiện ảnh hưởng đáng kể của nhánh Oghuz do sự hiện diện của người Thổ Ottoman tại Krym.
Một khu biệt lập nhỏ của người Karaite Krym được hình thành vào thế kỷ 13, họ là một dân tộc gốc Do Thái thực hành tín ngưỡng Karai và sau đó tiếp nhận một ngôn ngữ Turk. Họ tồn tại giữa người Tatar Krym Hồi giáo, chủ yếu tại khu vực Çufut Qale đồi núi.
Cossack xâm chiếm.
Năm 1553–1554, Hetman Dmytro Vyshnevetsky của người Cossack (tại vị 1550–1557) tập hợp các nhóm Cossack lại với nhau và xây dựng một pháo đài được thiết kế để cản trở các cuộc tấn công của người Tatar vào Ukraina. Cùng với hành động này, ông đã thành lập Sich Zaporozhia, nhờ đó ông tiến hành một loạt cuộc tấn công vào bán đảo Krym và người Thổ Ottoman.
Năm 1774, Đế quốc Ottoman chiến bại trước Yekaterina II của Nga. Sau hai thế kỷ xung đột, hạm đội Nga phá hủy Hải quân Ottoman và Lục quân Nga gây ra những thất bại nặng nề cho Lục quân Ottoman. Hiệp định Küçük Kaynarca sau đó buộc Sublime Porte công nhận người Tatar Krym độc lập về chính trị, có nghĩa là các hãn Krym rơi vào ảnh hưởng của Nga. Tuy nhiên, Hãn quốc Krym phải chịu sự suy sụp nội bộ dần dần, đặc biệt là sau một vụ tàn sát gây ra một cuộc di cư được Nga hỗ trợ của các thần dân Cơ Đốc giáo khỏi Krym, họ vốn chiếm áp đảo trong các tầng lớp đô thị và sau đó lập nên các thành phố như Mariupol. Nữ hoàng Yekaterina sau đó hợp nhất Krym vào Đế quốc Nga năm 1783, làm tăng sức mạnh của Nga trong khu vực Biển Đen.
Krym là lãnh thổ Hồi giáo đầu tiên tuột khỏi quyền bá chủ của sultan Ottoman. Biên giới của Đế quốc Ottoman dần thu hẹp lại, và Nga sau đó tiến hành đẩy biên giới cường quốc này về phía tây đến sông Dniester.
Đế quốc Nga (1783–1917).
Vào ngày 28 tháng 12 năm 1783, Đế quốc Ottoman ký một thoả thuận công nhận việc để mất Krym và các lãnh thổ khác do Hãn quốc Krym nắm giữ. Krym trải qua một số cải cách hành chính sau khi Nga sáp nhập, đầu tiên là oblast Taurida vào năm 1784 nhưng đến năm 1796 nó bị chia thành hai huyện và bị nhập vào guberniya Novorossia, và guberniya Taurida được thành lập vào năm 1802 với thủ phủ tại Simferopol. Tỉnh này gồm cả bán đảo Krym cùng các khu vực lân cận rộng lớn hơn thuộc đại lục. Năm 1826, Adam Mickiewicz xuất bản tác phẩm tinh túy của ông "Sonnet Krym" sau khi đi qua bờ biển Đen.
Đến cuối thế kỷ 19, người Tatar Krym tiếp tục hình thành thế đông đảo nhất mong manh trong cư dân nông thôn Krym, là bộ phận chiếm ưu thế trong cư dân vùng núi, và khoảng một nửa cư dân thảo nguyên. Bán đảo có số lượng lớn người Nga tập trung tại khu Feodosiya và người Ukraina cũng như một lượng nhỏ người Do Thái (bao gồm người Krymchak và người Karait Krym), người Belarus, người Thổ Nhĩ Kỳ, Armenia, người Hy Lạp và người Digan. Người Đức và người Bulgaria định cư tại Krym vào đầu thế kỷ 19, nhận được các vùng đất lớn và màu mỡ, sau đó các thực dân giàu có bắt đầu mua đất, chủ yếu là tại các huyện Perekopsky và Evpatoria.
Chiến tranh Krym.
Chiến tranh Krym (1853–1856) là một xung đột giữa Đế quốc Nga và một liên minh của Đế quốc Pháp, Đế quốc Anh, Đế quốc Ottoman, Vương quốc Sardegna và Công quốc Nassau. Đây là một phần trong cuộc tranh giành kéo dài giữa các cường quốc châu Âu về ảnh hưởng đối với các lãnh thổ của một Ottoman đang suy sụp. Nga và Ottoman đi đến chiến tranh vào tháng 10 năm 1853 về vấn đề quyền lợi của Nga trong việc bảo vệ Cơ Đốc nhân Chính thống giáo; để ngăn chặn các cuộc chinh phục của Nga thì Pháp và Anh tham gia vào tháng 3 năm 1854. Các cuộc giao tranh chính của cuộc chiến này diễn ra tại Krym.
Sau hành động tại các thân vương quốc Danube và tại Biển Đen, quân liên minh đổ bộ lên Krym vào tháng 9 năm 1854 và bao vây Sevastopol, là căn cứ của Hạm đội Biển Đen của Nga và liên quan đến mối đe dọa Nga có tiềm năng xâm nhập Địa Trung Hải. Sau khi giao tranh rộng rãi trên khắp Krym, thành phố thất thủ vào tháng 9 năm 1855. Chiến tranh kết thúc với thất bại của Nga vào tháng 2 năm 1856.
Chiến tranh tàn phá phần lớn cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của Krym. Người Tatar Krym phải chạy trốn hàng loạt khỏi quê hương mình, bị bắt buộc vì tình trạng do chiến tranh gây ra, hoặc do bị áp bức và trưng thu đất đai. Những người sống sót sau hành trình, nạn đói và dịch bệnh đã định cư tại Dobruja, Anatolia, và các nơi khác của Đế quốc Ottoman. Cuối cùng, chính phủ Nga quyết định dừng quá trình này, do nông nghiệp bắt đầu chịu tổn thất do vùng đất nông nghiệp màu mỡ không được chăm sóc.
Nội chiến Nga (1917–1922).
Sau Cách mạng Nga 1917, tình hình quân sự và chính trị tại Krym trở nên hỗn loạn giống như phần lớn Nga. Trong Nội chiến Nga sau đó, Krym qua tay nhiều thế lực và trong một thời gian là thành trì của quân Bạch vệ chống Bolshevik. Bán đảo cũng là nơi đứng chân cuối cùng của Bạch vệ Nga dưới quyền Tướng quân Wrangel chống lại Nestor Makhno và Hồng quân vào năm 1920. Khi sức kháng cự này bị đè bẹp, nhiều chiến binh và thường dân chống Bolshevik trốn thoát bằng thuyền đến Istanbul.
Khoảng 50.000 tù binh Bạch vệ và thường dân bị hành quyết bằng cách xử bắn và treo cổ sau thất bại của Tướng Wrangel vào cuối năm 1920. Đây được cho là một trong các vụ tàn sát lớn nhất trong Nội chiến Nga.
Từ 56.000 đến 150.000 thường dân sau đó bị sát hại trong Khủng bố Đỏ, do Béla Kun tổ chức.
Các thế lực từng cai trị Krym:
Liên Xô (1922–1991).
Giữa hai thế chiến.
Krym trở thành bộ phận của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga vào ngày 18 tháng 10 năm 1921 với vị thế Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Krym, CHXHCNXV Liên bang Nga tham gia hình thành Liên bang Xô viết vào năm 1922, Krym duy trì một mức độ tự chủ nhất định trên danh nghĩa và được vận hành như một khu biệt lập của người Tatar Krym.
Tuy nhiên, điều này không bảo vệ người Tatar Krym đang chiếm khoảng 25% dân số bán đảo, khỏi các cuộc đàn áp của Joseph Stalin trong thập niên 1930. Người Hy Lạp là nhóm văn hoá khác chịu tổn hại. Đất đai của họ bị mất đi trong quá trình tập thể hoá, khi đó nông dân không được bồi thường bằng tiền công. Trường học dạy tiếng Hy Lạp bị đóng cửa và văn học Hy Lạp bị phá hủy, vì Liên Xô nhận định người Hy Lạp là "phản cách mạng" do các liên hệ của họ với nhà nước Hy Lạp tư bản, và văn hoá độc lập của họ.
Từ năm 1923 đến năm 1944, có những nỗ lực nhằm tạo ra các khu định cư Do Thái tại Krym. Có hai nỗ lực để thiết lập quyền tự trị của người Do Thái tại Krym, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Krym trải qua hai nạn đói nghiêm trọng trong thế kỷ 20, nạn đói 1921–1922 và Holodomor 1932–1933. Một dòng người Slav (chủ yếu là người Nga và người Ukraina) lớn đổ vào Krym trong thập niên 1930 do kết quả từ chính sách phát triển khu vực của Liên Xô. Những biến động nhân khẩu học này làm thay đổi vĩnh viễn cân bằng dân tộc trong khu vực.
Thế chiến II.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Krym là chiến trường của một số trận đánh đẫm máu. Các thủ lĩnh của Đức Quốc xã nóng lòng muốn chinh phục và thuộc địa hoá bán đảo màu mỡ và tươi đẹp này, nằm trong chính sách của họ về tái định cư người Đức tại Đông Âu trên đất đai của người Slav. Trong Chiến dịch Krym, quân Đức và Romania chịu thương vong nặng nề vào mùa hè năm 1941 khi họ cố gắng tiến quân qua eo đất Perekop hẹp nối Krym với đại lục Liên Xô. Đến khi quân Đức đột phá (Chiến dịch Trappenjagd), họ chiếm giữ hầu hết Krym ngoại trừ Sevastopol, thành phố này bị bao vây và sau này được trao thưởng danh hiệu Thành phố Anh hùng sau chiến tranh. Hồng quân toinr thất 170.000 binh sĩ do thiệt mạng hoặc bị bắt làm tù binh, và ba tập đoàn quân (44, 47, 51) cùng với 21 sư đoàn.
Sevastopol bị bao vây từ tháng 10 năm 1941 đến ngày 4 tháng 7 năn 1942 khi quân Đức chung cuộc đã chiếm được thành phố. Từ ngày 1 tháng 9 năm 1942, bán đảo được quản lý với danh nghĩa "Generalbezirk Krim" (tổng khu Krym) "und Teilbezirk" (và phân khu) "Taurien", do "Generalkommissar" Alfred Eduard Frauenfeld (1898–1977) quản lý, dưới thẩm quyền của ba Reichskommissar liên tiếp của toàn Ukraina. Bất chấp các chiến thuật nặng tay của Đức Quốc xã và sự hỗ trợ của quân Romania và Ý, dãy núi Krym vẫn là một thành trì bất khả xâm phạm của lực lượng kháng chiến bản địa (du kích) cho đến ngày bán đảo được giải phóng khỏi lực lượng chiếm đóng.
Người Do Thái Krym là mục tiêu tiêu diệt trong thời kỳ chiếm đóng của Đức Quốc xã. Theo Yitzhak Arad, "Vào tháng 1 năm 1942, một đại đội gồm những người tình nguyện Tatar được thành lập tại Simferopol dưới quyền chỉ huy của "Einsatzgruppe 11". Đại đội này tham gia vào các cuộc săn lùng và giết hại chống lại người Do Thái ở các vùng nông thôn”. Khoảng 40.000 người Do Thái Krym bị giết.
Cuộc tấn công Krym của Liên Xô giành thắng lợi, năm 1944 Sevastopol nằm dưới quyền kiểm soát của binh sĩ Liên Xô. "Thành phố Vinh quang của Nga" này từng có các kiến trúc đẹp đã bị phá hủy hoàn toàn và phải được xây dựng lại từ đầu. Do có ý nghĩa lớn về lịch sử và biểu tượng đối với người Nga, thành phố trở thành một ưu tiên của Stalin và chính phủ Liên Xô nhằm khôi phục vinh quang trong quá khứ trong thời gian ngắn nhất có thể.
Cảng Yalta của Krym tổ chức Hội nghị Yalta gồm Roosevelt, Stalin và Churchill, sự kiện sau này được nhìn nhận là phân chia châu Âu giữa vùng ảnh hưởng cộng sản và dân chủ.
Trục xuất người Tatar Krym.
Ngày 18 tháng 5 năm 1944, toàn bộ cư dân người Tatar Krym bị chính phủ Liên Xô của Stalin trục xuất cưỡng ép đến Trung Á, đó là một dạng trừng phạt tập thể dựa trên lý lẽ là dân tộc này bị cáo buộc cộng tác với quân Đức và thành lập các quân đoàn Tatar thân Đức. Ngày 26 tháng 6 cùng năm, các cư dân Armenia, Bulgaria và Hy Lạp cũng bị trục xuất đến Trung Á, và một phần đến Ufa và vùng xung quanh thuộc dãy núi Ural. Tổng cộng có trên 230.000 người – khoảng một phần năm tổng dân số bán đảo Krym khi đó – bị trục xuất, chủ yếu đến Uzbekistan. Đến cuối mùa hè năm 1944, việc thanh lọc dân tộc tại Krym đã hoàn thành. Năm 1967, người Tatar Krym được phục hồi địa vị, nhưng bị cấm quay về quê hương mình cho đến thời gian cuối của Liên Xô. Sự kiện trục xuất được Ukraina công nhận chính thức là diệt chủng từ 2015.
Các dân tộc khác được tái định cư tại bán đảo, chủ yếu là người Nga và người Ukraina. Hầu hết các chuyên gia cho rằng sự kiện trục xuất nằm trong kế hoạch của Liên Xô nhằm giành quyền tiếp cận Dardanelles và giành lãnh thổ tại Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc để loại bỏ người dân tộc thiểu số khỏi các vùng biên giới của Liên Xô.
Gần 8.000 người Tatar Krym thiệt mạng trong quá trình trục xuất, và hàng chục nghìn người thiệt mạng sau đó do các điều kiện lưu đày khắc nghiệt. Người Tatar Krym phải bỏ lại 80.000 hộ gia đình và 360.000 acre đất đai.
Hậu chiến.
Krym từ nước cộng hòa tự trị không có dân tộc tiêu đề bị chuyển thành một tỉnh trong CHXHCNXV Liên bang Nga vào ngày 30 tháng 6 năm 1945. Một quá trình phi Tatar hoá Krym được bắt đầu nhằm xoá bỏ ký ức về người Tatar, bao gồm đổi tên hàng loạt hầu hết các địa danh, chuyển thành các tên gọi Slav và cộng sản. Rất ít địa điểm Bakhchysarai, Dzhankoy, İşün, Alushta, Alupka, và Saky được đổi lại tên gốc của chúng sau khi Liên Xô sụp đổ.
Chuyển giao cho Ukraina Xô viết năm 1954.
Ngày 19 tháng 2 năm 1954, tỉnh Krym được chuyển giao thẩm quyền từ CHXHCNXV Liên bang Nga sang CHXHCNXV Ukraina, trên cơ sở "đặc điểm hợp nhất của nền kinh tế, sự gần gũi về lãnh thổ và mối quan hệ kinh tế và văn hóa chặt chẽ giữa tỉnh Krym và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina" và để kỷ niệm 300 năm thống nhất Ukraina với Nga.
Sevastopol là một thành phố đóng cửa do tầm quan trọng của nó là cảng nhà của Hạm đội Biển Đen Liên Xô và chỉ được gắn kết vào tỉnh Krym vào năm 1978.
Việc xây dựng kênh đào Bắc Krym được bắt đầu vào năm 1957 ngay sau khi chuyển giao Krym, đây là một kênh đào phục vụ tưới tiêu tại tỉnh Kherson và bán đảo Krym. Kênh đào cũng có nhiều nhánh khắp tỉnh Kherson và bán đảo Krym. Các công trình chính của dự án diễn ra từ năm 1961 đến 1971 và có ba giai đoạn.
Trong những năm sau chiến tranh, Krym phát triển mạnh mẽ khi trở thành một địa điểm du lịch, với các điểm tham quan và viện điều dưỡng mới cho khách du lịch. Khách du lịch đến từ khắp Liên Xô và các quốc gia vệ tinh của họ, đặc biệt là từ CHDC Đức. Theo thời gian, bán đảo cũng trở thành một điểm đến du lịch chính cho các du thuyền bắt nguồn từ Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Cơ sở hạ tầng và sản xuất của Krym cũng phát triển, đặc biệt là xung quanh các cảng biển tại Kerch và Sevastopol và tại thủ phủ Simferopol. Dân số người Ukraina và người Nga tăng gấp đôi do các chính sách đồng hóa, với hơn 1,6 triệu người Nga và 626.000 người Ukrainela sống trên bán đảo vào năm 1989.
Thời hậu Xô viết.
Ukraina quản lý.
Khi Liên Xô tan rã và Ukraina độc lập, bán đảo Krym có dân tộc Nga chiếm đa số được tổ chức lại thành Cộng hòa Krym, sau một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1991, với việc nhà cầm quyền Krym thúc đẩy độc lập hơn khỏi Ukraina và liên kết chặt chẽ hơn với Nga. Năm 1995, nước cộng hòa bị Ukraina cưỡng chế bãi bỏ và thay thế bằng Cộng hòa Tự trị Krym nằm vững chắc dưới thẩm quyền của Ukraina. Cũng có những căng thẳng không liên tục với Nga về Hạm đội của Liên Xô, nhưng hiệp ước năm 1997 đã phân chia Hạm đội Biển Đen Liên Xô, cho phép Nga tiếp tục đặt hạm đội của họ tại Sevastopol, với hợp đồng thuê gia hạn vào năm 2010.
Năm 2006, các cuộc biểu tình nổ ra trên bán đảo sau khi Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đến thành phố Feodosiya của Krym để tham gia tập trận quân sự Sea Breeze 2006 Ukraina–NATO. Nghị viện Krym tuyên bố Krym là "lãnh thổ không có NATO". Sau nhiều ngày phản đối, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã rút khỏi bán đảo.
Vào tháng 9 năm 2008, sau Chiến tranh Nga–Gruzia, Bộ trưởng Ngoại giao Ukraina Volodymyr Ohryzko cáo buộc Nga cấp hộ chiếu Nga cho người dân tại Krym và mô tả đây là "vấn đề thực sự" do Nga tuyên bố chính sách can thiệp quân sự ở nước ngoài để bảo vệ công dân Nga. Valentyn Nalyvaychenko, quyền giám đốc của Cơ quan An ninh Ukraina (SBU), tuyên bố vào ngày 17 tháng 2 năm 2009 rằng ông tin tưởng rằng bất kỳ "kịch bản Ossetia" nào đều không thể xảy ra ở Krym. SBU bắt đầu tố tụng hình sự chống lại hiệp hội thân Nga "Mặt trận nhân dân Sevastopol-Krym-Nga" vào tháng 1 năm 2009.
Vào ngày 24 tháng 8 năm 2009, các cuộc biểu tình chống Ukraina đã được tổ chức tại Krym bởi các cư dân gốc Nga. Sergei Tsekov, một chính trị gia cấp cao thân Nga, khi đó nói rằng ông hy vọng rằng Nga sẽ ủng hộ chủ nghĩa ly khai của Krym giống như cách họ đã làm tại Nam Ossetia và Abkhazia.
Trước năm 2014, Krym có thể được coi là một phần của căn cứ chính trị của Tổng thống khi đó là Viktor Yanukovych. Vì vậy, trong khoảng thời gian ngay trước năm 2014, Krym đã không trải qua các cuộc huy động mạnh mẽ chống lại Ukraina hoặc nhân danh việc sáp nhập vào Nga.
Nga sáp nhập.
Các sự kiện tại Kyiv lật đổ tổng thống Ukraina Viktor Yanukovych đã gây ra các cuộc biểu tình chống lại chính phủ mới của Ukraina. Đồng thời, tổng thống Nga Vladimir Putin đã thảo luận về các sự kiện của Ukraina với các giám đốc cơ quan an ninh nhận xét rằng "chúng ta phải bắt đầu làm việc để đưa Krym trở về Nga". Vào ngày 27 tháng 2, các binh sĩ Nga chiếm giữ các điểm chiến lược trên khắp Krym. Điều này dẫn đến việc thành lập chính phủ Aksyonov thân Nga tại Krym, Trưng cầu dân ý về tình trạng Krym và tuyên bố Krym độc lập vào ngày 16 tháng 3 năm 2014. Mặc dù Nga ban đầu tuyên bố quân đội của họ không tham gia vào các sự kiện, nhưng sau đó thừa nhận rằng họ đã làm. Nga chính thức sáp nhập Krym vào ngày 18 tháng 3 năm 2014. Sau sáp nhập, Nga tăng cường sự hiện diện quân sự của mình trên bán đảo và đưa ra các mối đe dọa hạt nhân nhằm củng cố hiện trạng mới trên thực địa.
Ukraina và nhiều quốc gia khác lên án việc sáp nhập và cho đó là vi phạm luật pháp quốc tế và các thỏa thuận của Nga về bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina. Việc sáp nhập đã dẫn đến việc các thành viên khác của G8 đình chỉ Nga khỏi nhóm và áp dụng các lệnh trừng phạt. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng bác bỏ trưng cầu dân ý và sáp nhập, thông qua một nghị quyết khẳng định "sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina trong các đường biên giới được quốc tế công nhận".
Theo khảo sát được thực hiện bởi Pew Research Center vào năm 2014, phần lớn cư dân Krym nói rằng họ tin rằng cuộc trưng cầu dân ý là tự do và công bằng (91%) và rằng chính phủ tại Kyiv nên công nhận kết quả của cuộc bỏ phiếu (88%). Chính phủ Nga phản đối bị gắn mác "thôn tính", khi Putin bảo vệ cuộc trưng cầu dân ý là tuân thủ nguyên tắc quyền tự quyết của các dân tộc.
Kết quả.
Trong vòng vài ngày sau khi ký hiệp ước gia nhập, quá trình sáp nhập Krym vào liên bang Nga đã bắt đầu với việc rúp Nga được đưa vào lưu thông chính thức và sau này trở thành tiền tệ duy nhất cho thanh toán hợp pháp đồng hồ được chuyển sang giờ Moskva. Bản sửa đổi Hiến pháp Nga đã chính thức được công bố với Cộng hòa Krym và thành phố liên bang Sevastopol được thêm vào các chủ thể liên bang Nga, và Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev tuyên bố rằng Krym đã được hợp nhất hoàn toàn vào Nga. Kể từ khi sáp nhập, Nga đã hỗ trợ di cư quy mô lớn vào Krym.
Sau khi Ukraina mất quyền kiểm soát lãnh thổ vào năm 2014, họ cắt nguồn cung cấp nước của kênh Bắc Krym vốn cung cấp 85% nhu cầu nước ngọt của bán đảo từ sông Dnepr. Việc phát triển các nguồn nước mới được thực hiện, với những khó khăn lớn, để thay thế các nguồn mà Ukraina đã đóng cửa. Vào năm 2022, quân Nga từ bán đảo Krym chiếm đóng một phần lớn của tỉnh Kherson, cho phép họ mở khóa kênh Bắc Krym bằng vũ lực, nối lại nguồn cung cấp nước vào Krym.
Bắt đầu từ tháng 7 năm 2022, một loạt vụ nổ và hỏa hoạn đã xảy ra tại bán đảo Krym. |
19,822,164 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822164 | Hiệp ước Bầu trời Mở | Hiệp ước Bầu trời Mở (tiếng Anh: Treaty on Open Skies) là hiệp ước thiết lập chương trình thực hiện các chuyến bay giám sát trên không phi vũ trang trên toàn bộ lãnh thổ của các bên tham gia. Hiệp ước được thiết lập trên cơ sở tăng cường sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau bằng cách trao cho tất cả các quốc gia thành viên, bất kể quy mô, vai trò trực tiếp trong việc thu thập thông tin về các lực lượng quân sự và các hoạt động mà họ quan tâm. Nó có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 và hiện có 34 quốc gia thành viên. Ý tưởng về việc cho phép các quốc gia giám sát lẫn nhau một cách công khai được cho là để ngăn chặn sự hiểu lầm và hạn chế căng thẳng leo thang. Nó cũng đưa ra trách nhiệm giải trình lẫn nhau để các quốc gia tuân theo các cam kết trong hiệp ước.
Khái niệm "giám sát trên không lẫn nhau" ("mutual aerial observation") ban đầu được Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower đề xuất với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikolai Bulganin tại Hội nghị thượng đỉnh Genève năm 19955. Tuy nhiên, Liên Xô đã nhanh chóng bác bỏ khái niệm này và thuật ngữ đã im lìm trong vài năm. Hiệp ước cuối cùng đã được ký kết theo sáng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ (và cựu Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương) George H. W. Bush vào năm 1989. Thỏa thuận được các thành viên lúc bấy giờ của NATO và Khối Warszawa tham gia đàm phán, và được ký kết tại Helsinki, Phần Lan, vào ngày 24 tháng 3 năm 1992.
Ngày 22 tháng 11 năm 2020, Hoa Kỳ rút khỏi hiệp ước, và ngày 15 tháng 1 năm 2021, Nga cũng công bố ý định rút khỏi, với lý do Hoa Kỳ rút khỏi hiệp ước và các quốc gia thành viên không có khả năng đảm bảo rằng thông tin thu thập được sẽ không bị chia sẻ với Hoa Kỳ. Nga chính thức rút khỏi hiệp ước vào tháng 12 năm 2021.
Thành viên.
Có 32 quốc gia thành viên của Hiệp ước Bầu trời Mở, gồm: Belarus, Bỉ, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Canada, Croatia, Séc, Đan Mạch (bao gồm cả Greenland), Estonia, Phần lan, Pháp, Gruzia, Đức, Hy Lạp, Hungary, Iceland, Ý, Latvia, Litva, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, România, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraina và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Kyrgyzstan đã ký hiệp ước nhưng chưa phê chuẩn. Canada và Hungary là các bên giữ lưu chiểu của in hiệp ước để ghi nhận những đóng góp đặc biệt của họ đối với tiến trình Bầu trời Mở.
Hiệp ước Bầu trời Mở là một hiệp ước có vô thời hạn và sẵn sàng cho các quốc gia khác gia nhập. Các quốc gia hậu Xô viết chưa là quốc gia thành viên của hiệp ước có thể tham gia bất kỳ lúc nào. Các hoạt động liên quan của các quốc gia quan tâm khác phải tuân theo quyết định đồng thuận của Ủy ban Tư vấn về Bầu trời mở (OSCC). Tám quốc gia đã tham gia hiệp ước kể từ khi nó có hiệu lực vào năm 2002: Bosnia và Herzegovina, Croatia, Estonia, Phần Lan, Latvia, Litva, Slovenia và Thụy Điển.
Ủy ban Tư vấn về Bầu trời mở.
Ủy ban Tư vấn về Bầu trời mở (tiếng Anh: Open Skies Consultative Commission) là cơ quan thi hành Hiệp ước Bầu trời Mở. Ủy ban bao gồm các đại diện từ các quốc gia tham gia hiệp ước và họp hàng tháng tại trụ sở Viên của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE). |
19,822,174 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822174 | Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Slovenia | Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Slovenia (tiếng Serbia-Croatia: Socijalistička Republika Slovenija / Социјалистичка Република Словенија), thường gọi là Slovenia Xã hội chủ nghĩa hoặc chỉ là Slovenia, là một trong sáu cộng hoà liên bang tạo thành Nam Tư và là quốc gia dân tộc của người Slovenia. Nhà nước này tồn tại dưới nhiều tên khác nhau từ khi được thành lập vào ngày 29 tháng 11 năm 1945 cho đến ngày 25 tháng 6 năm 1991.
Vào đầu năm 1990, chính phủ đã dỡ bỏ hệ thống chính phủ độc đảng – được thiết lập bởi Liên đoàn những người cộng sản – và áp dụng một nền dân chủ đa đảng. Cộng hòa Slovenia đã bỏ tên hiệu 'Xã hội chủ nghĩa' ngay sau đó và vào cuối năm 1990 đã bỏ phiếu công khai thành công cho nền độc lập, và nước này chính thức tuyên bố độc lập vào ngày 25 tháng 6 năm 1991, và đạt được điều này sau Chiến tranh Mười ngày ngắn ngủi.
Tên gọi.
Nước cộng hòa lần đầu tiên có tên chính thức là "l'Slovenia Liên bang" (tiếng Serbia-Croatia: Federalna Slovenija / Федерална Словенија) cho đến ngày 20 tháng 2 năm 1946, khi được đổi tên thành "Cộng hòa Nhân dân Slovenia" (tiếng Serbia-Croatia: Narodna Republika Slovenija / Народна Република Словенија). Nó giữ tên này cho đến ngày 9 tháng 4 năm 1963, khi được đổi tên một lần nữa, lần này là "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovenia" (tiếng Serbia-Croatia: Socijalistička Republika Slovenija / Социјалистичка Република Словенија).
Vào ngày 8 tháng 3 năm 1990, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovenia đã loại bỏ tiền tố "Xã hội chủ nghĩa" khỏi tên của mình, trở thành Cộng hòa Slovenia, mặc dù vẫn là một quốc gia cấu thành của Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư cho đến ngày 25 tháng 6 năm 1991, khi họ ban hành luật dẫn đến độc lập.
Độc lập.
Vào tháng 9 năm 1989, nhiều sửa đổi hiến pháp đã được Quốc hội Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovenia thông qua, áp dụng dân chủ nghị viện cho đất nước. Cùng năm đó Hành động phía Bắc đoàn kết phe đối lập và cộng sản dân chủ hóa tại Slovenia trong hành động phòng thủ đầu tiên chống lại các cuộc tấn công của các ủng hộ viên Milošević, dẫn đến nền độc lập của Slovenia.
Từ 'Xã hội chủ nghĩa' đã bị xóa khỏi tên của nhà nước khi đó vào ngày 7 tháng 3 năm 1990. Cơ sở xã hội chủ nghĩa đã bị giải thể phần lớn. Cuộc bầu cử dân chủ công khai đầu tiên được tổ chức vào ngày 8 tháng 4 năm 1990. Phe đối lập, được gọi là liên minh DEMOS do nhà bất đồng chính kiến Jože Pučnik lãnh đạo, đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội. Đồng thời, Milan Kučan, cựu chủ tịch của Liên đoàn những người cộng sản Slovenia (ZKS), được bầu làm Tổng thống Cộng hòa. Quốc hội được bầu cử dân chủ đã đề cử lãnh đạo Đảng Dân chủ Cơ đốc giáo Lojze Peterle làm Thủ tướng, điều này đã chấm dứt thực sự 45 năm cầm quyền của Đảng Cộng sản. Trong thời kỳ này, Slovenia vẫn giữ lại lá cờ và huy hiệu cũ của mình, cùng với hầu hết các biểu tượng trước đây trong khi chờ đợi việc tạo ra các biểu tượng mới sẽ xuất hiện sau khi giành được độc lập. Quốc ca cũ là "Naprej zastava slave" đã được thay thế bằng "Zdravljica" vào tháng 3 năm 1990.
Vào ngày 23 tháng 12 năm 1990, một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập được tổ chức tại Slovenia, khi đó 94,8% số phiếu (88,5% tổng số cử tri) bỏ phiếu ủng hộ việc Slovenia ly khai khỏi Nam Tư. Vào ngày 25 tháng 6 năm 1991, các đạo luật về nền độc lập của Slovenia được Nghị viện thông qua. Sau Chiến tranh Mười ngày ngắn ngủi, quân đội Slovenia giành được độc lập; đến cuối năm, nền độc lập của họ được cộng đồng quốc tế công nhận. |
19,822,180 | 816786 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822180 | Droupadi Murmu | Droupadi Murmu (; sinh ngày 20 tháng 6 năm 1958) là một cựu giáo viên và chính trị gia người Ấn Độ, hiện đang giữ chức vụ tổng thống Ấn Độ kể từ năm 2022. Bà là người phụ nữ thứ hai (sau Pratibha Patil) và là người trẻ nhất giữ chức vụ này. Bà cũng là tổng thống đầu tiên sinh ra ở Ấn Độ độc lập. |
19,822,209 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822209 | Nguyễn Văn Nhuệ | Nguyễn Văn Nhuệ (ngày 20 tháng 8 năm 1938 - ngày 30 tháng 11 năm 2022) tên thánh Phêrô, là chính khách Việt Nam Cộng Hòa, nguyên dân biểu và thượng nghị sĩ Quốc hội Việt Nam Cộng hòa.
Tiểu sử.
Nguyễn Văn Nhuệ chào đời tại Giáo xứ Trung Lai, Giáo phận Bắc Ninh (nay thuộc tỉnh Bắc Giang) vào ngày 20 tháng 8 năm 1938 (tài liệu thời Việt Nam Cộng hòa ghi là năm 1938, cáo phó thì ghi là năm 1936).
Từ năm 1962 đến năm 1967, ông dạy học ở trường phổ thông. Ngày 22 tháng 10 năm 1967, ông được bầu làm Dân biểu và giữ chức Phó Tổng Thư ký Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa từ năm 1968 đến năm 1969. Sau khi nhiệm kỳ Dân biểu kết thúc vào năm 1971, ông vào làm việc trong Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa.
Từ năm 1973 đến năm 1975 (nhiệm kỳ ban đầu đến năm 1979, chấm dứt sớm do chính thể Việt Nam Cộng hòa sụp đổ) với chức vụ Thượng nghị sĩ Việt Nam Cộng hòa.
Nguyễn Văn Nhuệ qua đời tại nhà riêng vào ngày 30 tháng 11 năm 2022 ở Laguna Hills, California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi. |
19,822,210 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822210 | Nguyễn Văn Ngải | Nguyễn Văn Ngải (sinh ngày 12 tháng 9 năm 1934) là chính khách Việt Nam Cộng hòa và là thành viên Đại Việt Quốc dân Đảng, từng là Bộ trưởng Bộ Phát triển Nông thôn kiêm thượng nghị sĩ trong Quốc hội Việt Nam Cộng hòa.
Tiểu sử.
Nguyễn Văn Ngải chào đời tại Hưng Yên, miền bắc Việt Nam ngày 12 tháng 9 năm 1934. Thân phụ tên Nguyễn Chí Lai là một đảng viên tích cực của Đại Việt Quốc dân Đảng từng bị bắt giam nhiều năm từ năm 1939 vì hoạt động chống thực dân Pháp, về sau bị Đảng Cộng sản bắt giữ do bất đồng chính kiến.
Năm 1950, ông gia nhập Đại Việt Quốc dân Đảng khi đang theo học ở Hà Nội. Năm 1964, ông là chủ nhiệm kiêm chủ bút một tờ nhật báo và tuần báo chính trị ở Sài Gòn. Từ năm 1973 đến năm 1974, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Phát triển Nông thôn.
Kể từ sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, không rõ tung tích của ông ra sao nữa.
Đời tư.
Nguyễn Văn Ngải tin theo tín ngưỡng Phật giáo. Ông đã kết hôn và có tới sáu người con (tính đến năm 1974). |
19,822,211 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822211 | Hoàng Xuân Tửu | Hoàng Xuân Tửu (ngày 5 tháng 5 năm 1928 – Tháng 9 năm 1980) là chính khách Việt Nam Cộng hòa, nguyên Phó Chủ tịch Thượng nghị viện Việt Nam Cộng hòa.
Tiểu sử.
Hoàng Xuân Tửu chào đời tại tỉnh Quảng Trị, Liên bang Đông Dương vào ngày 5 tháng 5 năm 1928.
Năm 1944, ông gia nhập Đại Việt Quốc dân Đảng tham gia đấu tranh chống thực dân Pháp giành độc lập cho Việt Nam. Năm 1946, ông lãnh đạo phong trào chống đối cộng sản ở Quảng Trị. Năm 1955, ông xa lánh chính quyền Ngô Đình Diệm và tự lập căn cứ ở Ba Lòng, Quảng Trị để chống lại chế độ độc tài của ông Diệm. Ít lâu sau, ông bị tòa án thân chính phủ kết án 6 năm tù khổ sai vào năm 1956.
Tháng 8 năm 1969, ông đã tổ chức thành công một cuộc họp báo tại Tokyo trước khi kết thúc chuyến công du hữu nghị tới Pháp, Ý, Vương quốc Liên hiệp Anh, Bỉ, Mỹ, Trung Hoa Dân Quốc và Nhật Bản. Từ năm 1964 đến năm 1965, ông giữ chức Tỉnh trưởng Quảng Trị, sau ra làm dân biểu Quốc hội Lập hiến từ năm 1966 đến năm 1967, Thượng nghị sĩ từ năm 1967 đến năm 1973, Phó Chủ tịch Thượng viện nghị từ năm 1974 đến năm 1975, đây cũng là nhiệm kỳ cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của đời ông.
Từ sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Hoàng Xuân Tửu bị nhà cầm quyền cộng sản đưa đi cải tạo tập trung và chết tại nhà tù Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh vào tháng 9 năm 1980.
Đời tư.
Ông đã lập gia đình và có tới chín người con. |
19,822,212 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822212 | Hoàng Cơ Thụy | Hoàng Cơ Thụy (1912 – 2004) là luật sư, chính khách và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Vương quốc Lào.
Tiểu sử.
Thân thế và học vấn.
Hoàng Cơ Thụy sinh ngày 24 tháng 9 năm 1912 tại làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay là quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội), Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương. Thân phụ tên Hoàng Huân Trung từng là quan chức triều Nguyễn.
Năm 1936, ông được trường Đại học Hà Nội (tức Đại học Đông Dương chứ không phải Đại học Hà Nội ngày nay) cấp bằng hợp pháp. Từ năm 1938 đến năm 1942, ông được nhận vào làm Thư ký Tòa Sơ thẩm Hà Nội, rồi lên làm Thư ký Tòa Sơ thẩm Biên Hòa năm 1943. Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 2 năm 1946, ông giữ chức Chánh án Tòa Sơ thẩm Bến Tre. Từ năm 1943 trở về sau, ông là luật sư tại Tòa Phúc thẩm Sài Gòn.
Dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa, ông được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Vương quốc Lào từ năm 1969 cho đến cuối tháng 4 năm 1975.
Hoạt động chính trị.
Năm 1954, Hoàng Cơ Thụy làm tổng thư ký và là người khởi xướng Phong trào Tranh thủ Tự do. Ông còn là chú của Nguyễn Triệu Hồng, một sĩ quan quân đội tham gia vào âm mưu đảo chính năm 1960 nhằm lật đổ chế độ của Tổng thống Diệm. Khi đó ông đang là lãnh đạo của một đảng đối lập nhỏ đã ủng hộ và tham gia vào cuộc đảo chính rồi tìm cách chạy trốn khỏi miền Nam Việt Nam sau khi đảo chính thất bại.
Đời tư.
Vợ là Nguyễn Thị Đính sinh được 7 người con. |
19,822,213 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822213 | Chicken tatsuta | là một loại bánh hamburger gà rán kiểu Nhật được McDonald Nhật Bản bày bán và đăng ký nhãn hiệu.
"" được chế biến bằng cách chiên ngập dầu. Sau khi ướp thịt hoặc cá, thịt được rắc katakuri-ko (tinh bột khoai tây) của Nhật trước khi chiên. Tinh bột ngô cũng được sử dụng nếu không có sẵn katakuri-ko. Món này được nấu kèm theo thịt lợn, cá thu hoặc cá voi. Chúng cũng có thể được dùng làm bữa trưa với bánh mì đóng vai trò như một loại sandwich hoặc bánh bao. |
19,822,235 | 845147 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822235 | Richard D. Wolff | Richard David Wolff (sinh 1 tháng 4 năm 1942) là một nhà kinh tế học Marxist người Mỹ, nổi danh với các tác phẩm về phương pháp luận kinh tế học và phân tích giai cấp. Ông là giáo sư danh dự của khoa kinh tế học tại Đại học Massachusetts Amherst và là giáo sư thỉnh giảng chương trình tốt nghiệp ngành quan hệ quốc tế của Đại học New School. Wolff cũng đã từng có thời gian giảng dạy tại Đại học Yale, Đại học Thành phố New York, Đại học Utah, Đại học Paris I (Sorbonne), và Diễn đàn Brecht ở Thành phố New York. |
19,822,242 | 458684 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822242 | José Carlos Mariátegui | José Carlos Mariátegui (14 tháng 6 năm 1894 – 16 tháng 4 năm 1930) là một cây bút, chính khách và triết gia Marx-Lenin người Peru. Bình sinh, ông được người đời gọi trìu mến bằng cái tên "El Amauta", nghĩa là "thầy giáo" trong tiếng Quechua bản địa. |
19,822,243 | 70636046 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822243 | The New Mentor - Người mẫu Toàn năng 2023 | Người mẫu Toàn năng 2023 hay The New Mentor 2023 là chương trình truyền hình thực tế tìm kiếm và đào tạo ra một thế hệ người mẫu với những tố chất mới, phù hợp với nhu cầu và xu hướng mới của thị trường. Nơi một người mẫu không chỉ cần đáp ứng với những tiêu chuẩn về thời trang cao cấp mà còn có khả năng tham gia vào nền công nghiệp quảng cáo và giải trí, từ đó khẳng định được tên tuổi và vị thế, gây được sức ảnh hưởng lớn hơn đến khán giả, và sau cùng trở thành một người thầy của một thế hệ mới để đào tạo nên những thế hệ người mẫu và nghệ sĩ giải trí trong tương lai. Các huấn luyện viên của chương trình bao gồm siêu mẫu Thanh Hằng, ca sĩ Hồ Ngọc Hà, hoa hậu Hương Giang và siêu mẫu Trần Ngọc Lan Khuê. Chương trình lên sóng lúc 20h30 Thứ sáu hàng tuần trên kênh VTVcab - Đài truyền hình Việt Nam (đến hết tập 9) và các nền tảng media của Huong Giang Entertainment bắt đầu từ ngày 11 tháng 08 năm 2023 đến ngày tháng năm 2023.
Các tập phát sóng.
Tập 1: Cuộc chiến của người mẫu, bốn team lộ diện.
"Ngày phát sóng: 11 tháng 8 năm 2023"
VÒNG ĐỐI ĐẦU
Tại vòng thi này, các thí sinh sẽ thi đấu theo cặp, họ có 2 phút 30 giây để tìm kiếm và mặc trang phục đề bài yêu cầu, sau đó, trình diễn catwalk và trả lời câu hỏi của ban giám khảo. Thí sinh nhận được 3/5 giám khảo bình chọn trở lên sẽ giành chiến thắng và được đi tiếp vào vòng chọn đội. Mỗi Super Mentor có quyền cứu 1 thí sinh bị loại, thí sinh được cứu sẽ về thẳng đội huấn luyện viên đó; Super Judge hoặc Host cũng có quyền cứu 1 thí sinh, thí sinh đó được chọn 1 trong 4 phong bì có tên của các huấn luyện viên, đồng nghĩa với việc về đội của huấn luyện viên đó. Có 6 thí sinh lọt thẳng vào top 24 và 29 thí sinh đi tiếp vào vòng chọn đội.
Ghi chúVÒNG CHỌN ĐỘI
29 thí sinh bước vào vòng chọn đội, trong đó chỉ có 15 thí sinh được các huấn luyện viên lựa chọn. Kết thúc vòng chọn đội, team Hồ Ngọc Hà thiếu 1 thành viên và team Lan Khuê thiếu 2 thành viên, do đó phải chọn thêm 3 trong 14 thí sinh không được chọn trước đó; host Dược sĩ Tiến đã chọn H'Duyên Bkrông về team Hồ Ngọc Hà và Kim Nhung, Pông Chuẩn về team Lan Khuê.
Tập 2: Thử thách chụp ảnh và màn loại trừ đầu tiên.
"Ngày phát sóng: 18 tháng 8 năm 2023"
COMPREHENSIVE AREA
Trước tiên, top 24 thí sinh được mang giày múa và luyện tập các kĩ thuật cùng diễn viên múa Linh Nga. Sau đó, các thí sinh sẽ thực hiện bộ ảnh "The Lotus" trong BST "The Legacy of The New Mentor" trên concept bồn hoa sen, mỗi thí sinh có 2 phút để hoàn thành thử thách. Ban giám khảo sẽ công bố 3 bức ảnh đẹp nhất và 3 bức ảnh tệ nhất, các thí sinh có bức ảnh đẹp nhất sẽ mang lợi thế về cho đội của mình trong thử thách tiếp theo.
3 thí sinh có bức ảnh đẹp nhất (xếp theo thứ hạng)
3 thí sinh có bức ảnh tệ nhất (KHÔNG xếp theo thứ hạng)
PROVING AREA
Các Super Mentor chọn ra 4 thí sinh mỗi team làm leader (hay The New Mentor) để dẫn dắt các thí sinh khác. Top 24 thí sinh phải thực hiện một bộ ảnh "xuyên không" vào các vở chèo để cùng trò chuyện, giao lưu các nhân vật và "kể lại" thông qua một bộ ảnh thời trang high fashion. Mỗi team sẽ có với 6 bức ảnh đơn và 1 bức ảnh nhóm do Super Mentor chỉ đạo, cùng với đó, sẽ có 1 bức ảnh bao gồm 5 người mẫu do The New Mentor chỉ đạo. Các team có 25 phút thực hiện, top 3 ở thử thách trước giúp team mình có thêm thời gian ở thử thách lần này, team Thanh Hằng thêm 3 phút, team Hương Giang thêm 2 phút và team Lan Khuê thêm 1 phút. Các The New Mentor cũng là người chọn 1 trong 2 trích đoạn chèo "Xúy Vân giả dại" trong "Kim Nham" và "Thị Mầu lên chùa" trong "Quan Âm Thị Kính" cho team mình, dưới sự hỗ trợ của NSƯT Thu Huyền và NSND Thúy Ngần. Cách tính điểm chia làm hai phần: mỗi bức ảnh đơn và bức ảnh team do Super Mentor hướng dẫn có 2 trên 3 ban giám khảo "say yes" sẽ được tính 1 điểm; bức ảnh của 5 người mẫu do The New Mentor hướng dẫn sẽ được ban giám khảo cho điểm, bức ảnh có tổng điểm cao nhất nhận được 10 điểm, tổng điểm cao thứ hai, ba, tư lần lượt nhận được 9.5 - 9 - 8.5 điểm.
Tập 3: CATWALK ĐỊA HÌNH LIÊN HOÀN, AI SẼ BỊ LOẠI? |
19,822,246 | 70577970 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822246 | Ngọc Thúy | Ngọc Thúy tên đầy đủ là Phạm Thị Ngọc Thúy (sinh năm 1980 tại Sài Gòn) là một siêu mẫu, diễn viên Việt Nam. Cô là một trong những tên tuổi hàng đầu của thời trang Việt Nam vào đầu thập niên 2000. Cô được mệnh danh là Marilyn Monroe Việt Nam. |
19,822,259 | 219726 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822259 | Hòa bình kiểu Carthage | Hòa bình kiểu Carthage là sự áp đặt một "hòa bình" rất tàn bạo nhằm mục đích làm tê liệt vĩnh viễn bên thua cuộc. Thuật ngữ này bắt nguồn từ các điều khoản hòa bình do Cộng hòa La Mã áp đặt lên Đế chế Carthage sau Chiến tranh Punic. Sau Chiến tranh Punic lần thứ hai, Carthage mất tất cả các thuộc địa của mình, buộc phải phi quân sự hóa, liên tục cống nạp cho La Mã và bị cấm tiến hành chiến tranh nếu không có sự cho phép của La Mã. Vào cuối Chiến tranh Punic lần thứ ba, La Mã đã đốt cháy Carthage một cách có hệ thống và bắt dân Carthage về làm nô lệ.
Nguồn gốc.
Thuật ngữ này được phổ biến bởi nhà kinh tế học thế kỷ 20 John Maynard Keynes.
Thuật ngữ này đề cập đến kết quả của một loạt cuộc chiến tranh giữa La Mã và thành bang Carthage của người Phoenicia, được gọi là Chiến tranh Punic. Hai đế quốc đã tiến hành ba cuộc chiến tranh riêng biệt với nhau, bắt đầu từ năm 264 trước Công nguyên và kết thúc vào năm 146 trước Công nguyên.
Vào cuối Chiến tranh Punic lần thứ ba, người La Mã đã vây hãm Carthage. Khi chiếm được đô thành, La Mã đã giết hầu hết cư dân, bắt những người còn lại bán làm nô lệ và phá hủy toàn bộ thành phố. Không có bằng chứng cổ xưa nào cho các tài liệu hiện đại rằng người La Mã rải muối lên mặt đất.
Nói rộng ra, một nền hòa bình kiểu Carthage có thể đề cập đến bất kỳ hiệp ước hòa bình tàn bạo nào yêu cầu bên bại trận khuất phục hoàn toàn.
Sử dụng hiện đại.
Việc sử dụng thuật ngữ hiện đại thường được mở rộng cho bất kỳ giải pháp hòa bình nào trong đó các điều khoản hòa bình quá khắc nghiệt và được thiết kế để làm nổi bật và duy trì sự thấp kém cho bên thua cuộc. Do đó, sau Thế chiến I, nhiều người (trong số đó có nhà kinh tế học John Maynard Keynes) ] đã mô tả cái gọi là hòa bình do Hiệp ước Versailles mang lại như một “hòa bình kiểu Carthage”.
Kế hoạch Morgenthau được đưa ra sau Thế chiến II cũng được mô tả là một hòa bình kiểu Carthage, vì nó ủng hộ quá trình phi công nghiệp hóa nước Đức. Nó nhằm mục đích hạn chế nghiêm trọng ảnh hưởng quyền lực Đức trong khu vực và ngăn chặn quá trình Đức tái vũ trang, như đã xảy ra sau Thế chiến thứ nhất (Đức tái vũ trang và Tái quân sự hóa Rhineland). Kế hoạch Morgenthau đã bị loại bỏ thay thế bằng Kế hoạch Marshall (1948–1952), kéo theo việc xây dựng lại cơ sở hạ tầng Tây Âu, đặc biệt là ở Tây Đức.
Tướng Lucius D. Clay, cấp phó của Tướng Dwight D. Eisenhower và, vào năm 1945, Thống đốc Quân sự Vùng Hoa Kỳ chiếm đóng ở Đức, sau này đã nhận xét rằng "không còn nghi ngờ gì nữa, JCS 1067 đã dự tính hòa bình kiểu Carthage chi phối các hoạt động ở Đức trong những tháng đầu chiếm đóng. Đây là lúc Hoa Kỳ đang tuân theo Kế hoạch Morgenthau." Clay sau đó sẽ thay thế Eisenhower làm thống đốc và tổng tư lệnh ở châu Âu. Kế hoạch Marshall được ủng hộ vì sự hồi sinh của nền kinh tế Tây Đức được coi là cần thiết cho sự phục hồi của nền kinh tế châu Âu. Tây Đức được coi là bức tường thành quan trọng chống lại Khối phía Đông. |
19,822,287 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822287 | Linda Yaccarino | Linda Yaccarino (sinh ngày 21 tháng 12 năm 1963) là một nhà điều hành truyền thông người Mỹ. Bà từng là chủ tịch mảng quảng cáo toàn cầu và cộng tác của NBCUniversal. Vào ngày 5 tháng 6 năm 2023, Yaccarino kế nhiệm Elon Musk với vai trò CEO của X Corp., một phần của Twitter.
Đầu đời và học vấn.
Yaccarino lớn lên ở Deer Park, New York. Bà là người gốc Ý. Yaccarino tốt nghiệp Khoa Truyền thông Donald P. Bellisario thuộc Đại học Bang Pennsylvania với bằng cử nhân viễn thông năm 1985.
Sự nghiệp.
Yaccarino hoạt động tại Turner Entertainment gần 20 năm, trở thành phó chủ tịch điều hành và giám đốc điều hành bộ phận kinh doanh quảng cáo, bà giúp phát triển các quảng cáo mới và chiến lược tiếp thị. Yaccarino gia nhập NBCUniversal vào tháng 10 năm 2011. Là người đứng đầu bộ phận bán hàng quảng cáo của NBCUniversal, bà đóng vai trò chủ chốt trong việc ra mắt dịch vụ phát trực tuyến Peacock.
Yaccarino gia nhập Hội đồng Quảng cáo vào năm 2014. Năm 2018, Tổng thống Donald Trump bổ nhiệm bà vào Hội đồng của Tổng thống về Thể thao, Thể hình và Dinh dưỡng. Yaccarino trở thành chủ tịch của ban giám đốc Hội đồng Quảng cáo vào tháng 1 năm 2021, nhiệm kỳ kết thúc ngày 30 tháng 6 năm 2022. Khi là chủ tịch, Yaccarino hợp tác với chính quyền Biden vào năm 2021 để tạo ra một chiến dịch vắc-xin COVID-19 với sự góp mặt của Giáo hoàng Phanxicô. Bà còn chủ trì lực lượng đặc nhiệm Tương lai về Công việc của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF).
Yaccarino từ chức ở NBCUniversal vào ngày 12 tháng 5 năm 2023, cùng ngày Elon Musk cho biết Yaccarino sẽ giữ chức CEO của X Corp. và Twitter. Trước việc bổ nhiệm này, tờ "Financial Times" tỏ ra hoài nghi của Musk về WEF và mối liên hệ của Yaccarino với tổ chức mà ông phê phán là "sẽ trở thành một chính phủ thế giới không được bầu". Musk trấn an người dùng là ông không nghĩ mối liên hệ của Yaccarino với WEF là trở ngại đối với cam kết tự do ngôn luận mà ông tuyên bố, về việc bổ nhiệm Yaccarino giữ chức CEO Twitter ông viết "cam kết tính minh bạch tài liệu công khai và thừa nhận nhiều quan điểm lớn không thay đổi." Yaccarino được cho là một người được địa vị theo chỉ định của Trump và theo dõi một số tài khoản theo thuyết âm mưu và cực hữu trên Twitter. Dưới sự lãnh đạo của Musk và Yaccarino, nền tảng này nổi tiếng vì gia tăng các phát ngôn thù hận và được coi là cực hữu.
Đời tư.
Yaccarino kết hôn với Claude Madrazo và có hai người con. Họ sinh sống ở Sea Cliff, New York. |
19,822,292 | 3200 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822292 | Alpheus armatus | Alpheus armatus là một loài tôm gõ mõ trong họ Alpheidae, được tìm thấy tại vùng nước nông ở Biển Caribe và Vịnh Mexico. Nó sống cùng với một loài hải quỳ như "Bartholomea annulata", dọn sạch cát khỏi các vết nứt và kẽ hở mà hải quỳ thường sinh sống.
Miêu tả.
"Alpheus armatus" là loài tôm có kích thước vừa phải, dài từ 2 đến 5 cm (0,8 đến 2,0 in). Râu có màu trắng với các dải sẫm màu và thân màu nâu, cam hoặc đỏ, có đốm trắng. Một trong những cặp chân trước mang một gọng kìm khổng lồ, dùng làm vũ khí săn mồi và đe dọa kẻ thù, có khả năng tạo ra tiếng "cách" lớn. Chân trước còn lại mang một móng vuốt nhỏ.
Phân bố và môi trường sống.
"Alpheus armatus" sinh sống tại vùng nước nhiệt đới và cận nhiệt đới phía tây Đại Tây Dương, Biển Caribe và Vịnh Mexico, thường ở độ sâu lớn hơn 10 m (33 ft). Cùng với "A. armatus", loài tôm gần như tương đồng "Alpheus immaculatus" tạo thành một quần thể loài, chủ yếu xuất hiện ở độ cao từ 13 đến 25 m (43 đến 82 ft). Cả hai loài tôm sống cùng với một loài hải quỳ, thường là "Bartholomea annulata", sinh sống trong hang động, phần nhô ra và kẽ hở, cũng như san hô vụn; hải quỳ giấu chân và cột của nó ở một nơi kín đáo và vươn các xúc tu vào cột nước để kiếm ăn. Khi bị quấy rầy, hải quỳ co cơ thể trở lại hang ổ của mình, rồi tự vệ bằng các xúc tu có nọc độc. Nơi hải quỳ sống gần đáy biển có cát hoặc ở vị trí sóng gió, có nhiều khả năng có một hoặc một cặp tôm cộng sinh sống cùng với nó hơn là hải quỳ ở xa đáy biển hơn.
Sinh thái.
"Alpheus armatus" là loài săn mồi, ăn động vật giáp xác nhỏ, động vật thân mềm và thậm chí cả cá nhỏ. Khi một con mồi tiềm năng tiếp cận con tôm này, nó sẽ mở rộng chiếc gọng kìm lớn của mình và tiến về phía mồi, đóng chặt càng lại bằng một tiếng lách cách lớn. Động tác này phóng ra một tia nước giống như súng nước và "hạ gục" con mồi; tiếng "cách" là do bong bóng tạo bọt vỡ ra khi móng vuốt đóng lại. Tôm sau đó mang con mồi về tổ để ăn. Nếu vì một lý do nào đó mà móng vuốt bị mất, móng vuốt còn lại sẽ to ra, mang hình dạng và chức năng của móng vuốt "cách", mặc dù không bao giờ đạt được kích thước như ban đầu. Ở lần thay vỏ tiếp theo, một móng vuốt nhỏ mới phát triển trên chi bị tổn thương, nhưng không phục hồi chức năng ban đầu.
"Alpheus armatus" là loài cộng sinh bắt buộc của hải quỳ, thường là "Bartholomea annulata", và có thể thích nghi với độc tố của nó. Con tôm tìm kiếm hải quỳ ngay cả khi cả hai đều bị chôn vùi hoàn toàn trong cát. Tôm chủ động dọn sạch cát cản lối vào hang ổ của hải quỳ. Trong khi làm sạch hang, tôm thực hiện ba hành vi riêng biệt: đào bới, hất tung và xáo trộn cát. Nhờ đó, hải quỳ có thể tự co mình vào ổ một cách dễ dàng hơn nhằm tự vệ; trong khi tôm được những xúc tu độc của hải quỳ bảo vệ. |
19,822,295 | 686003 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822295 | Andy Selva | Andy Selva (sinh ngày 23 tháng 5 năm 1976) là một cựu cầu thủ bóng đá San Marino hiện tại đang là huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Tre Fiori tại Campionato Sammarinese di Calcio. Trong cả sự nghiệp, anh thi đấu ở vị trí tiền đạo và đã từng là đội trưởng của Đội tuyển bóng đá quốc gia San Marino, kết thúc sự nghiệp của mình với tư cách là cầu thủ nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử của đội bóng.
Sự nghiệp thi đấu.
Chuyên nghiệp.
Anh bắt đầu sự nghiệp của mình vào mùa giải 1994–95, chơi ở Eccellenza với A.S. Latina, trong đó anh đã ghi được 5 bàn thắng sau 26 lần ra sân. Mùa giải tiếp theo, anh ghi 10 bàn sau 31 lần ra sân cho Civita Castellana ở Serie D, trước khi chuyển đến Fano (tại Serie C2), nơi anh ở lại cho đến tháng 3 năm 1998, anh đã chơi 32 trận chỉ với một bàn thắng. Năm 1999, Selva chơi với câu lạc bộ tại Serie C2 khác, Catanzaro, ra sân 40 lần, ghi 6 bàn.
Selva quay lại Eccellenza với Tivoli vào năm 1999, anh ghi 15 bàn sau 21 trận, trong khi ở mùa giải tiếp theo, anh chuyển đến San Marino, nơi anh ghi bốn bàn sau 26 lần ra sân. Trong mùa giải 2001–02 chơi ở ba đội khác nhau, anh có ba lần ra sân với San Marino, sau đó là năm lần ra sân với Maceratese ở Serie D, ghi một bàn thắng, và do đó kết thúc mùa giải ở Serie D, với Grosseto (15 lần ra sân và ghi 2 bàn). Anh đã ghi 21 bàn sau 30 trận cho Bellaria trong mùa tiếp theo.
Vào mùa hè năm 2003, anh chuyển đến SPAL 1907, tại đây, trong hai mùa giải ở Serie C1, anh đã chơi 51 trận và ghi được 22 bàn thắng.
Vào giữa năm 2009, anh chuyển đến Hellas Verona nhưng đã bị bán đi sau khi Verona thăng hạng lên Serie B.
Vào tháng 7 năm 2011, anh thử việc tại câu lạc bộ Santarcangelo.
Giải nghệ.
Anh tuyên bố giải nghệ với tư cách là một cầu thủ vào tháng 7 năm 2018.
Sự nghiệp quốc tế.
Selva được sinh ra ở Roma, Ý với bố là người Ý đến từ Lazio và mẹ là người San Marino. Vì vậy, anh có thể đại diện cho cả Ý lẫn San Marino và anh đã chọn đại diện cho San Marino.
Anh ra mắt quốc tế vào ngày 9 tháng 9 năm 1997 trong trận thua 1–4 trước U-21 Thổ Nhĩ Kỳ, và ghi được 1 bàn thắng trong trận đấu đó.
Là một trong số ít những cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp trong nước, anh được ca ngợi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử của đội tuyển quốc gia nước này. Anh đã ra sân 73 lần cho đội tuyển quốc gia và ghi được 8 bàn thắng, trở thành tay săn bàn hàng đầu trong lịch sử của đội. Cho đến năm 2012, anh là cầu thủ duy nhất ghi nhiều hơn một bàn cho San Marino.
Vào ngày 28 tháng 4 năm 2004, Selva trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn thắng quyết định cho San Marino khi anh ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Liechtenstein. Đó là trận thắng duy nhất mà San Marino giành được cho đến nay, đồng thời là một trong 6 trận đấu chính thức mà San Marino giữ sạch lưới.
Sự nghiệp huấn luyện viên.
Sau khi giải nghệ, anh được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của Đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia San Marino vào năm 2018. Vào tháng 2 năm 2020, anh được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của câu lạc bộ Pennarossa. Vào ngày 13 tháng 6 năm 2022, anh được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Tre Fiori. Vào ngày 7 tháng 7 năm 2022, anh đã giúp đội bóng giành chiến thắng đầu tiên trên sân khách ở một giải đấu cúp châu Âu (và là trận thắng đầu tiên của bất kỳ đội bóng ở San Marino nào), chiến thắng 1–0 trước Fola Esch. Một tuần sau, Tre Fiori đánh bại Fola Esch 3–1 trong trận lượt về, dẫn đến việc họ lần đầu tiên đủ điều kiện tham dự vòng loại thứ 2 của UEFA Europa Conference League và lần thứ hai duy nhất tiến xa ở một giải đấu tại châu Âu. |
19,822,296 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822296 | Jumhuriya | Jumhūriyyah, Jumhūrīyah hay Jumhūrīyat (; ) là một từ trong tiếng Ả Rập, có nghĩa là "cộng hòa". Tên chính thức của các quốc gia sau đây có chứa từ "Jumhūriyyah" hoặc chứa các biến thể của từ này theo các ngôn ngữ khác. |
19,822,299 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822299 | Rap Việt All-Star Concert (mùa 1) | Rap Việt All-Star Concert là buổi hòa nhạc trực tiếp có sự góp mặt của các HLV, ban giám khảo và các thí sinh của chương trình, và cũng là món quà tri ân mà chương trình dành tặng khán giả. Đêm diễn ban đầu dự kiến tổ chức vào ngày 30 tháng 1 năm 2021 với quy mô 10.000 khán giả, nhưng đã bị lùi lại sang ngày 10 tháng 4 năm 2021 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.
Buổi hòa nhạc được phát sóng trên kênh HTV2 - Vie Channel, VTVCab 1 - Vie Giải Trí, ứng dụng VieON vào 20 giờ các ngày 22, 29 tháng 5 và 21 giờ ngày 6 thâng 6 năm 2021, được phát hành trên kênh Youtube HTV2 - Vie Channel vào 20 giờ các ngày 12, 19 tháng 6 năm 2021. |
19,822,300 | 683380 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822300 | Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 - Giải đấu Liên Quân Mobile | Thể thao điện tử Liên Quân tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 sẽ là một nội dung thi đấu tranh huy chương, được tranh tài từ ngày 24 tháng 09 năm 2023 đến ngày 26 tháng 09 năm 2023. Tại Đại hội Thể thao châu Á 2022, bộ môn Liên Quân sẽ được thi đấu ở phiên bản Đại hội Thể thao châu Á, sẽ được thay thế bằng bộ môn Vương Giả Vinh Diệu.
Phiên bản Đại hội Thể thao châu Á.
Bản đồ.
Bộ môn Liên Quân (Vương Giả Vinh Diệu) sẽ sử dụng bản đồ của tựa game Vương Giả Vinh Diệu. |
19,822,301 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822301 | Đẳng cấp quý tộc Scotland | Đẳng cấp quý tộc Scotland (tiếng Gael Scotland: "Moraireachd na h-Alba"; tiếng Scots: "Peerage o Scotland"; tiếng Anh: "Peerage of Scotland") là 1 trong 5 bộ phận của đẳng cấp quý tộc tại Vương quốc Anh và người lập ra những tước vị thuộc đẳng cấp đó là Vua Scotland tạo ra trước năm 1707. Theo Hiệp ước Liên minh, Vương quốc Scots và Vương quốc Anh được kết hợp dưới tên gọi Vương quốc Đại Anh, và một đẳng cấp quý tộc mới được thiết lập với tên gọi Đẳng cấp quý tộc Đại Anh, trong đó các tước hiệu tiếp theo được tạo ra.
Những người ngang hàng Scotland được quyền ngồi trong Nghị viện Scotland cũ. Sau Liên minh, những người đồng cấp của Nghị viện cũ của Scotland đã bầu 16 đại diện ngang hàng vào ngồi trong Viện Quý tộc tại Westminster. Đạo luật Đẳng cấp quý tộc 1963 đã cấp cho tất cả những quý tộc Scotland ngang hàng quyền ngồi trong Viện Quý tộc, nhưng quyền tự động này đã bị thu hồi, đối với tất cả các quý tộc cha truyền con nối (ngoại trừ của Bá tước Nguyên soái và Lãnh chúa Thị vệ Đại thần Anh đương nhiệm), khi Đạo luật Viện Quý tộc 1999 nhận được sự đồng ý của Hoàng gia.
Không giống như hầu hết các quý tộc khác, nhiều tước hiệu của Scotland đã được ban cho phần còn lại để truyền cho con cái (do đó, một gia đình người Ý đã kế vị và hiện đang nắm giữ tước vị Bá tước xứ Newburgh), và trong trường hợp chỉ dành cho con gái, những tước vị này được trao cho con gái tránh rơi vào tình trạng bị tước bỏ tước vị khi tuyệt tự dòng nam (như trường hợp của các nam tước Anh cổ đại bằng lệnh triệu tập). Không giống như các danh hiệu quý tộc khác của Anh, luật Scots cho phép các tước vị được thừa kế bởi hoặc thông qua một người không hợp pháp khi sinh, nhưng sau đó được hợp pháp hóa bởi cha mẹ của họ kết hôn sau đó.
Các cấp bậc của Quý tộc Scotland theo thứ tự tăng dần: Lãnh chúa của Nghị viện, Tử tước, Bá tước, Hầu tước và Công tước. Các Tử tước Scotland khác với các Tử tước của các Đẳng cấp quý tộc khác (của Anh, Đại Anh, Ireland và Vương quốc Liên hiệp Anh) bằng cách sử dụng phong cách của tước hiệu của họ, như trong Tử tước xứ Oxfuird. Mặc dù đây là dạng lý thuyết, nhưng hầu hết các Tử tước đều bỏ "of". Tử tước xứ Arbuthnott và ở một mức độ thấp hơn là Tử tước xứ Oxfuird vẫn sử dụng "of".
Các Nam tước Scotland xếp hạng dưới các Lãnh chúa của Nghị viện, và mặc dù được coi là cao quý, nhưng tước hiệu của họ là cha truyền con nối. Đã có lúc các nam tước phong kiến ngồi trong quốc hội. Tuy nhiên, họ được coi là những nam tước nhỏ chứ không phải ngang hàng vì tước hiệu của họ có thể được cha truyền con nối hoặc mua bán.
Trong bảng sau đây về Đẳng cấp quý tộc Scotland hiện tại, tước hiệu xếp hạng cao nhất của mỗi đẳng cấp trong các đẳng cấp khác (nếu có) cũng được liệt kê. Những quý tộc ngang hàng được biết đến với tước hiệu cao hơn ở một trong những đẳng cấp khác được liệt kê bằng chữ in nghiêng. |
19,822,302 | 802888 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822302 | Toàn cầu hóa quân sự | Toàn cầu hóa quân sự (tiếng Anh: Military globalization) được David Held định nghĩa là "quá trình ngày càng tăng về mức độ và cường độ của các mối quan hệ quân sự giữa các đơn vị chính trị trong hệ thống thế giới. Có thể hiểu, nó phản ánh sự mở rộng của mạng lưới quan hệ quân sự toàn cầu, cũng như tác động của những đổi mới công nghệ quân sự quan trọng (từ tàu thủy chạy bằng hơi nước đến vệ tinh), dần theo thời gian, đã tái tạo thế giới thành một không gian địa chiến lược duy nhất". Đối với Robert Keohane và Joseph Nye, toàn cầu hóa quân sự kéo theo 'các mạng lưới phụ thuộc quân sự lẫn nhau ở khoảng cách xa, và mối đe dọa hoặc hứa hẹn sử dụng vũ lực".
Held chia toàn cầu hóa quân sự thành ba quá trình riêng biệt:
Tất cả ba quá trình trên "được kết nối với sự phát triển công nghệ, thứ đã giúp chúng trở nên khả thi ngay từ đầu. Kết quả của việc này là làm tăng tính phức tạp và phụ thuộc lẫn nhau trên toàn cầu".
Quá trình toàn cầu hóa quân sự bắt đầu từ Thời đại Khám phá, khi các đế quốc thuộc địa châu Âu bắt đầu các hoạt động quân sự trên phạm vi toàn cầu. "Sự cạnh tranh đế quốc đã dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất, là cuộc xung đột toàn cầu đầu tiên trong lịch sử thế giới". Keohane xác định thời điểm toàn cầu hóa quân sự bắt đầu ít nhất là từ thời những cuộc chinh phạt của Alexandros Đại Đế. |
19,822,306 | 886765 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822306 | Danh sách cầu thủ tham dự giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á 2023 | Dưới đây là các đội hình cho Giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á 2023, diễn ra từ ngày 17 đến ngày 26 tháng 8 năm 2023.
Mười đội tuyển quốc gia thuộc Liên đoàn bóng đá ASEAN (AFF) tham gia giải đấu này phải đăng ký một đội có tối đa 23 cầu thủ, trong đó có ba thủ môn. Chỉ những cầu thủ trong danh sách đội dưới đây mới được phép tham gia giải đấu.
Bảng A.
Thái Lan.
Huấn luyện viên: Issara Sritaro
Campuchia.
Huấn luyện viên: Félix Dalmás
Myanmar.
Huấn luyện viên: Michael Feichtenbeiner
Brunei.
Huấn luyện viên: Atsushi Hanita
Bảng B.
Đông Timor.
Huấn luyện viên: Park Tae-su
Malaysia.
Huấn luyện viên: E. Elavarasan
Indonesia.
Huấn luyện viên: Shin Tae-yong
Bảng C.
Việt Nam.
Huấn luyện viên: Hoàng Anh Tuấn
Đội hình cuối cùng được công bố vào ngày 19 tháng 8 năm 2023.
Philippines.
Huấn luyện viên: Christopher Pedimonte
Đội hình cuối cùng được công bố vào ngày 16 tháng 8 năm 2023.
Lào.
Huấn luyện viên: Guglielmo Arena |
19,822,312 | 769406 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822312 | Plastic Love | là một bài hát city pop của ca sĩ người Nhật Bản Takeuchi Mariya, nằm trong album phát hành năm 1984 của cô "Variety". Sau khi phát hành dưới dạng đĩa đơn một năm sau đó, ca khúc đã đạt thành công tương đối và bán được khoảng 10.000 bản.
Vào năm 2017, "Plastic Love" chứng kiến sự hồi sinh trên phạm vi quốc tế khi bản phối lại dài 8 phút của bài hát xuất hiện YouTube. Video nhanh chóng thu về 24 triệu lượt xem, trước khi khiếu nại bản quyền đối với hình ảnh album vô tình dẫn đến việc nó bị xóa. Bản phối này đã được khôi phục vào năm 2019 và có hơn 63 triệu lượt xem.
Sản xuất và phát hành.
"Plastic Love" được viết và biểu diễn bởi Takeuchi, sản xuất bởi là chồng cô, Yamashita Tatsuro. Yamashita cũng chơi guitar cho bài hát, trong khi Nakanishi Yasuharu chơi piano điện, Itō Kōki chơi guitar bass và Aoyama Jūn chơi trống. Trong một cuộc phỏng vấn với "The Japan Times", Takeuchi đã nhớ lại: "Tôi muốn viết một thứ gì đó có thể nhảy được, một thứ gì đó mang âm hưởng city pop... [lời bài hát] kể về câu chuyện của một người phụ nữ đã mất đi người đàn ông mà cô ấy thực sự yêu".
Bài hát ra mắt lần đầu trong album ăn khách số một của Takeuchi, "Variety" (1984). Một đĩa đơn 12-inch của ca khúc đã được phát hành vào ngày 25 tháng 3 năm 1985. Đây là đĩa đơn thứ 12 của nữ ca sĩ, bao gồm một "bản hòa âm câu lạc bộ mở rộng" và bản phối lại mới bài hát. Sau khi xuất bản, đĩa "Plastic Love" đã đạt vị trí thứ 86 trên Oricon Singles Chart.
Hồi sinh.
Ngày 5 tháng 7 năm 2017, một người dùng có tên là "Plastic Lover" đã tải lên bản phối lại "Plastic Love" dài 8 phút trên YouTube. Video cho thấy hình ảnh cắt xén từ bìa đĩa đơn trước đó của Takeuchi "Sweetest Music", chụp bởi nhiếp ảnh gia Alan Levenson ở Los Angeles. Trong một cuộc phỏng vấn, Plastic Lover nói rằng video là bản tải lên lại của một video tương tự đã bị xóa trên nền tảng.
Trùng hợp với sự phổ biến của dòng nhạc vaporwave, bản phối của Plastic Lover đã lan truyền nhanh chóng khắp YouTube thông qua thuật toán đề xuất. Sự lan truyền của bài hát cũng được hỗ trợ bởi các meme trên internet, thảo luận trên Reddit, và fan art của bìa "Sweetest Music" trên những nền tảng như DeviantArt. Video đã đạt được 24 triệu lượt xem trước khi bị gỡ xuống do tranh chấp bản quyền với Levenson, nhưng sau đó được khôi phục trở lại vào năm 2019 với phần ghi công Levenson trong phần mô tả và hình thu nhỏ của video. Bài hát cũng truyền cảm hứng cho một phiên bản lời tiếng Anh do người hâm mộ tạo ra, bên cạnh bản remix và ảnh bìa đĩa của người hâm mộ. Tính đến tháng 5 năm 2021, video đã có hơn 63 triệu lượt xem.
Ryan Bassil, viết cho "Vice" đã đánh giá bài hát là "một giai điệu hiếm hoi không cần những từ ngữ chính xác để miêu tả chuyên nghiệp một cảm giác cụ thể – những ham muốn, đau lòng, tình yêu, sợ hãi, phiêu lưu, mất mát, tất cả bị cuốn vào giữa dòng xoáy của một đêm chơi bời trên phố" và gọi "Plastic Love" là "bài nhạc pop hay nhất thế giới". Cat Zhang của trang "Pitchfork" ghi nhận rằng những người trẻ hâm mộ city pop thường coi "Plastic Love" là "cánh cổng dẫn đường" của họ. Nhiều phiên bản cover của ca khúc cũng tồn tại, bao gồm của Tofubeats, Friday Night Plans và Chai.
Vào ngày 16 tháng 5 năm 2019, phiên bản ngắn của video âm nhạc chính thức, do Hayashi Kyōtaro sản xuất, đã được phát hành trên YouTube với thời lượng 90 giây. Phiên bản đầy đủ, dài khoảng 5 phút, nằm trong DVD và Blu-ray của "Souvenir the Movie" phát hành ngày 18 tháng 11 năm 2020. Video âm nhạc sau đó cũng có trên YouTube vào 11 tháng 11 năm 2021. Ngày 3 tháng 11 cùng năm, Tower Records đã phát hành bản in lại đĩa đơn 12 inch cũ của "Plastic Love", cùng với các bản ghi LP album của Takeuchi gồm "Variety" and "Request".
Danh sách ca khúc.
Tất cả các bài hát do Takeuchi Mariya viết và sắp xếp bởi Yamashita Tatsuro. |
19,822,316 | 880080 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822316 | Benjamin Cremaschi | Benjamin Cremaschi (; sinh ngày 2 tháng 3 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Mỹ hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Inter Miami tại Major League Soccer.
Sự nghiệp thi đấu.
Inter Miami.
Cremaschi bắt đầu chơi bóng tại câu lạc bộ Key Biscayne SC khi mới 6 tuổi và năm 14 tuổi chuyển đến Weston Academy. Anh đã giúp Weston Academy giành được U-16 MLS Next Cup năm 2021, nơi anh giành được Chiếc giày Vàng. Anh chuyển đến đội trẻ của Inter Miami vào năm 2021. Năm 2022, anh giúp đội U-17 Inter Miami vô địch Generation Adidas Cup
và giành được quyền lựa chọn tại MLS NEXT All-Star. Anh cũng ra mắt cho Inter Miami II vào năm 2022, ghi 5 bàn và có 1 kiến tạo trong mùa giải đó ở MLS Next Pro. Vào ngày 22 tháng 11 năm 2022, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Inter Miami theo bản hợp đồng 3 năm. Anh ra mắt chuyên nghiệp với Inter Miami khi vào sân thay người trong chiến thắng 2–0 trước CF Montréal tại Major League Soccer vào ngày 25 tháng 2 năm 2023.
Quốc tế.
Sinh ra ở Hoa Kỳ, Cremaschi là người gốc Argentina và do đó đủ điều kiện để đại diện cho một trong hai quốc gia. Anh được gọi triệu tập lên đội tuyển U-19 Hoa Kỳ cho chiến dịch giành chức vô địch của họ tại Slovenia Nations Cup vào tháng 9 năm 2022. Anh được gọi lên một trại huấn luyện của đội tuyển U-20 Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2022 để chuẩn bị cho Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2023. Ngày 7 tháng 12 năm 2022, anh được triệu tập lên đội tuyển U-20 Argentina cho một trại huấn luyện để tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 Nam Mỹ 2023. |
19,822,335 | 177111 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822335 | Danh sách thảm họa quân sự | Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc hoàn toàn thất bại trong việc đạt được mục tiêu ban đầu. Nó thường, nhưng không phải luôn luôn, liên quan đến thiệt hại về người rất lớn và không tương xứng. Các nguyên nhân rất đa dạng và bao gồm lỗi con người, công nghệ kém, vấn đề hậu cần, đánh giá thấp kẻ thù, đông hơn và kém may mắn.
Danh sách được liệt kê này là những trận đánh mà nhiều nguồn liên quan đến chủ đề thảm họa quân sự đã coi sự kiện được đề cập là một thảm họa quân sự (hoặc một thuật ngữ tương đương). |
19,822,343 | 153657 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822343 | Sergey Fyodorovich Rudskoy | Sergey Fyodorovich Rudskoy (chữ Kirin: Серге́й Фёдорович Рудско́й, sinh ngày 2 tháng 10 năm 1960) là một tướng lĩnh Quân đội Liên bang Nga, Anh hùng Liên bang Nga. Ông hiện là Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Liên bang Nga, quân hàm Thượng tướng.
Tiểu sử.
Tướng Rudskoy sinh ngày 2 tháng 10 năm 1960 tại Nikolaev, vùng Nikolaev, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukraina, nay là Mykolaiv, tỉnh Mykolaiv, Ukraina
Cha của ông là Anh hùng Liên Xô, thiếu tướng binh chủng tăng thiết giáp Fyodor Andreevich Rudskoy (1921-1982).
Năm 1977, ông tốt nghiệp Trường Thiếu sinh quân Suvorov Minsk; năm 1981, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Chỉ huy Vũ khí Liên hợp Moskva.
Ông tham gia cuộc chiến Chechnya, năm 1995, với quân hàm trung tá và là chỉ huy Trung đoàn súng trường cơ giới Cận vệ 255 Stalingrad-Korsun.
Ngày 13 tháng 12 năm 2012, ông được thăng quân hàm Trung tướng.
Ngày 24 tháng 11 năm 2015, ông được bổ nhiệm làm Tổng Cục trưởng Tổng Cục Tác chiến của Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Liên bang Nga - Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất Lực lượng vũ trang Liên bang Nga.
Ngày 22 tháng 2 năm 2017, ông được thăng quân hàm Thượng tướng.
Ông là Ủy viên Hội đồng biên tập Tạp chí "Tư tưởng quân sự" của Nga.
Ông bị Chính phủ Vương quốc Anh quy kết là tội phạm chiến tranh ở Syria vì hỗ trợ Chính quyền al-Assad và do đó bị Anh cấm vận từ năm 2022. Đến năm 2023, ông lại bị Liên minh châu Âu cấm vấn vì lý do Tổng cục Tác chiến do ông làm thủ trưởng là cơ quan chịu trách nhiệm chính về vạch kế hoạch tác chiến xâm lược Ukraina. |
19,822,348 | 832640 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822348 | Tổng giáo phận Sydney | Tổng giáo phận Sydney (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma với tòa giám mục đặt tại Sydney, New South Wales, Úc. |
19,822,351 | 458684 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822351 | Makhnovshchyna | Makhnovshchyna () là một phong trào quần chúng hướng tới việc thiết lập một xã hội theo chủ nghĩa cộng sản vô trị ở miền nam và đông Ukraina trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập Ukraina (1917–1921). Lấy tên theo tổng tư lệnh Nghĩa quân Cách mạng Ukraina, Nestor Makhno, mục đích của phong trào là nhằm sáng lập một hệ thống các xô-viết tự do điều hành sự chuyển tiếp sang một xã hội không nhà nước và không giai cấp. |
19,822,354 | 845234 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822354 | Ga Sari | Ga Sari (Tiếng Hàn: 사리역, Hanja: 四里驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở nằm ở Sa-dong, Sangnok-gu, Ansan-si, Gyeonggi-do. Nó hoạt động như một dịch vụ hành khách từ tháng 9 năm 1966 đến tháng 12 năm 1995 và tiếp tục hoạt động vào ngày 12 tháng 9 năm 2020 với tư cách là ga bán ngầm cho các đoàn tàu đường đôi khổ tiêu chuẩn. |
19,822,359 | 889492 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822359 | Henry Francis Cary | Reverend Henry Francis Cary (6 tháng 12 năm 1772 – 14 tháng 8 năm 1844) là một tác giả và dịch giả người Anh, được biết đến nhiều nhất với bản dịch thơ không vần tác phẩm "Thần khúc" của Dante.
Tiểu sử.
Henry Francis Cary sinh tại Gibraltar, ngày 6 tháng 12 năm 1772. Ông là con trai cả của Henrietta Brocas và William Cary. Henrietta là con gái của Theophilus Brocas, chức danh Dean của Killala và William. Vào thời điểm đó, ông là đội trưởng của Trung đoàn Bàn Chân "Regiment of Foot" đầu tiên. Ông nội của ông, Henry Cary là phó tế, và ông cố của ông, Mordecai Cary, là giám mục của giáo phận đó.
Ông được đào tạo tại Trường Rugby và tại các trường Grammar của Sutton Coldfield và Birmingham, cũng như tại Christ Church, Oxford, nơi ông nhập học năm 1790 và theo học ngành văn học Pháp và Ý. Khi còn đi học, ông thường xuyên đóng góp cho "Tạp chí Gentleman's Magazine" và xuất bản một tập "Sonnets and Odes" . Ông từng nhận lệnh thánh và vào năm 1797 trở thành cha xứ của Abbots Bromley ở Staffordshire . Ông đã tại vị ở đây cho đến khi tạ thế. Năm 1800, ông cũng trở thành cha xứ của Kingsbury ở Warwickshire.
Tại Christ Church, ông đã học văn học Pháp và Ý, khả năng thành thạo của ông được chứng tỏ trong các ghi chú của ông về bản dịch Dante của chính mình. Phiên bản của "Địa ngục (Inferno)" được xuất bản vào năm 1805 cùng với văn bản gốc.
Cary chuyển đến London vào năm 1808, nơi ông trở thành độc giả tại nhà nguyện Berkeley Chapel và sau đó là giảng viên tại Chiswick và phụ trách viên nhà nguyện Savoy Chapel. Phiên bản của ông toàn văn tác phẩm "Thần khúc" bằng thơ không vần xuất hiện vào năm 1814. Cuốn sách được xuất bản với chi phí của chính ông, vì nhà xuất bản từ chối chấp nhận rủi ro do sự cố phát sinh đối với "Địa ngục Inferno" .
Bản dịch đã gây chú ý tới Samuel Rogers bởi Thomas Moore. Rogers đã thực hiện một số bổ sung cho một bài viết về nó bởi Ugo Foscolo trên tờ "Edinburgh Review". Bài báo này, cùng với lời khen ngợi dành cho công trình của Coleridge trong một bài giảng tại Royal Institution, đã dẫn đến sự thừa nhận chung về giá trị của nó. "Dante" của Cary dần dần chiếm vị trí trong số các tác phẩm tiêu chuẩn, trải qua bốn lần xuất bản trong đời ông.
Năm 1833, Cary được nghỉ phép sáu tháng vì ốm và cùng với người hầu và con trai của ông, Francis, đi đến Ý thăm Amiens, Paris, Lyons, Aix, Nice, Mentone, Genoa, Pisa, Florence, Sienna, Rome (một tháng), Napoli, Bologna, Verona, Venice (một tháng), Innsbruck, Munich, Nuremberg, Frankfurt, Cologne, Rotterdam, Hague, Amsterdam, Brussels, Ghent và Bruges.
Năm 1824, Cary xuất bản bản dịch "The Birds" của Aristophanes, và khoảng năm 1834, ông xuất bản bản dịch "Odes" của Pindar. Năm 1826, ông được bổ nhiệm làm trợ lý thủ thư tại Bảo tàng Anh, chức vụ mà ông đã giữ trong khoảng 11 năm. Ông từ chức vì việc bổ nhiệm người giữ sách in, lẽ ra đã phải thuộc về ông theo quy trình thăng tiến thông thường, người ta đã từ chối ông mặc dù khi đó nó đang bỏ trống. Năm 1841, khoản trợ cấp vương miện trị giá 200 bảng Anh một năm, có được nhờ nỗ lực của Samuel Rogers, đã được trao cho ông.
"Cuộc đời của các nhà thơ Pháp thời kỳ đầu" của Cary và "Cuộc đời của các nhà thơ Anh" (từ Samuel Johnson cho đến Henry Kirke White), được dự định là phần tiếp theo của "Cuộc đời các nhà thơ" của Johnson, được xuất bản dưới dạng tuyển tập vào năm 1846. Ông tạ thế tại Charlotte St., St. George's, Bloomsbury, London vào năm 1844 và được chôn cất ở Poets' Corner, Tu viện Westminster.
Một cuốn hồi ký đã được xuất bản bởi con trai ông, thẩm phán Henry Cary, vào năm 1847. Một người con trai khác, Francis Stephen Cary, trở thành giáo viên nghệ thuật nổi tiếng, kế nhiệm Henry Sass với tư cách là người đứng đầu học viện nghệ thuật của ông ở London. |
19,822,363 | 889492 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822363 | Gustavo Bacarisas | Gustavo Bacarisa (1872–1971) GMH là một họa sĩ người Gibralta. Ông sinh ra tại Gibraltar và mất ở Seville, Tây Ban Nha. Tác phẩm của ông theo phong cách tượng hình và chủ đề đa dạng, được đặc trưng bởi cách sử dụng màu sắc phong phú. Ông đã kết hôn với nghệ sĩ và nhà thiết kế Thụy Điển Elsa Jernås.
Sự nghiệp.
Bacaris theo học ở Paris, Pháp và làm việc ở Buenos Aires, Argentina cho đến năm 1916. Sau đó, ông chuyển đến thủ đô Seville của Andalucia. Ông cũng từng đến Thụy Điển để tạo ra các bối cảnh và bức tượng cho vở opera "Carmen". Tương tự như vậy với phần đầu của "El amor brujo" () tại "Teatro Español" ở Madrid. Trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, ông đã chuyển chỗ ngụ cư, lần này là đến đảo Madeira của Bồ Đào Nha, rồi trở lại Gibraltar vào năm 1937. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ông chuyển đến Tây Ban Nha, định cư ở Seville.
Bacarisas đã trưng bày tác phẩm của mình ở nhiều thành phố của Tây Ban Nha cũng như ở nước ngoài. Ông được trao huy chương vàng và danh hiệu giáo sư danh dự bởi "Real Academia de Bellas Artes de Santa Isabel de Hungría" () và là thành viên của "Real Academia de Bellas Artes de San Fernando". |
19,822,364 | 529523 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822364 | Sophie Hedevig của Đan Mạch | Sophie Hedevig của Đan Mạch và Na Uy (28 tháng 8 năm 1677 – 13 tháng 3 năm 1735) là một Vương nữ Đan Mạch, con gái của Christian V của Đan Mạch và Charlotte Amalie xứ Hessen-Kassel.
Tiểu sử.
Sophie Hedevig đã sớm trở thành đối tượng của những cuộc hôn nhân triển vọng và đã được hứa hôn ba lần. Khi còn nhỏ, Sophie Hedevig được đính hôn với em họ là Johann Georg IV xứ Sachsen, một truyền thống về mặt chính trị giữa Đan Mạch và Sachsen. Năm 1689, cuộc hôn nhân của hai người sẽ được tiến hành vào hai năm sau đó. Tuy nhiên, khi Johann Georg IV kế vị cha mình trở thành Tuyển hầu tước xứ Sachsen vào năm 1691 thì đã hủy bỏ hôn ước với Sophie Hedevig. Vào năm 1692, và sau đó là từ năm 1694 đến năm 1697, một cuộc hôn nhân với Joseph của Áo (tương lai là Hoàng đế của Thánh chế La Mã) đã được đề xuất. Tuy nhiên, Sophie Hedevig từ chối cải sang Công giáo bất chấp áp lực từ cha.
Từ năm 1697 đến năm 1699, Đan Mạch mong muốn một liên minh với Thụy Điển, liên minh này sẽ được hiện thực hóa bằng một đám cưới kép của Sophie Hedevig với Karl XII của Thụy Điển, và em trai là Carl với chị gái của Karl XII là Hedvig Sofia (sau khi Hedvig Sofia kết hôn vào năm 1698, em gái của Hegvid Sophia Ulrika Eleonora trở thành lựa chọn thay thế). Tuy nhiên, mặc dù phần nào tiếp nhận ý tưởng về một liên minh với Đan Mạch, Karl XII thực tế không muốn kết hôn, và liên minh Đan Mạch-Thụy Điển rất không được chấp thuận ở Thụy Điển.
Sophie Hedevig do đó vẫn duy trì tình trạng độc thân, mặc dù có tin đồn rằng vương nữ đã bí mật kết hôn với một cận thần quý tộc là Carl Adolph von Plessen (1678-1758).
Năm 1699, cha của Sophie Hedevig qua đời và được kế vị bởi anh trai với tên hiệu là Frederik IV. Theo thông lệ, Sophie Hedevig sống với mẹ cho đến khi mẹ vương nữ qua đời vào năm 1714, và sau đó Sophie Hedevig sống tại triều đình của anh trai Frederik IV. Trong số những thị nữ của Sophie Hedevig có Elisabeth Helene von Vieregg, là tình nhân của Frederik IV từ năm 1701 và vào năm 1703 thì trở thảnh vợ lẽ của Frederik IV. Khi Thái hậu Charlotte Amalie qua đời vào năm 1714, Sophie Hedevig được thừa kế các điền trang của Gjorslev và Erikstrup và Vương nữ đã trao cho Frederik IV để đổi lấy các điền trang của Dronninglund, Dronninggård và Tu viện Børglum ("Børglumkloster").
Sophie Hedevig có mối quan hệ tốt với anh trai Frederik IV cho đến năm 1721, khi vương nữ rời triều đình cùng với em trai Carl để phản đối cuộc hôn nhân của Frederik IV với Nữ Bá tước Anne Sophie Reventlow. Hai chị em dựng nên một triều đình riêng của tại Vemmetofte, một trang viên mà Carl được thừa kế từ mẹ của hai chị em. Họ có một triều đình gồm 70 cận thần quý tộc, đứng đầu là Carl Adolph von Plessen, bạn của Carl, và thậm chí có thể là người chồng bí mật của chính Sophie Hedevig. Hai chị em chỉ làm hòa với Quốc vương vài năm sau đó. Sophie Hedevig, cùng với Carl và Carl Adolph, đã thành lập các trường học dành cho người dân trên các vùng lãnh địa của mình, vì Sophie Hedevig tin rằng trường học là cần thiết để đưa ra các chỉ dẫn tôn giáo.
Khi Carl qua đời vào năm 1729, Sophie Hedevig là người thừa kế được ưu ái em trai. Vương nữ được thừa kế những vùng lãnh địa tương đối rộng lớn: Vemmetofte, Højstrup và Charlottenborg. Tuy nhiên, Vương nữ cũng phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Carl và Sophie Hedevig đã chi trả bằng thu nhập từ Cung điện Sorgenfri, Dronninggård và Frederiksdal mà Vương nữ được cháu trai Christian VI ban cho khi Christian VI kế vị Frederik IV vào năm 1730.
Vương nữ Sophie Hedevig là một họa sĩ vẽ chân dung tài năng và có niềm đam mê đến âm nhạc, đồ thủ công mỹ nghệ như đồ trang trí bằng ngà voi và thêu thùa. Vương nữ cũng thu thập sách thánh vịnh và các ấn phẩm khác nhau. Nhiều tác phẩm của Vương nữ được lưu giữ trong Bộ sưu tập Vương thất Đan Mạch tại Lâu đài Rosenborg. Năm 1735, Tu viện Vemmetofte ("Vemmetofte Kloster"), một nơi dành cho những phụ nữ quý tộc chưa lập gia đình được thành lập theo chỉ dẫn trong di chúc của Sophie Hedevig. Vương nữ qua đời ở tuổi 57 tại Charlottenborg. |
19,822,365 | 889492 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822365 | Cờ Lyon | Cờ Lyon bao gồm một tấm vải hình chữ nhật, trên đó hiển thị các yếu tố của quốc huy, do đó nó là một lá cờ huy hiệu. Theo thói quen, nó được tính theo tỷ lệ thông thường là 3: 2 và là một lá cờ dành cho mục đích dân dụng, vì trong Tòa thị chính và các khu vực phụ thuộc của nó, chỉ có quốc kỳ Pháp được kéo lên.
Chiếc khiên đặc trưng của Lyon bao gồm một cánh đồng gule (màu đỏ), trong đó có con sư tử xuất hiện một cách hung hãn (có hình dạng và dáng đứng) và bằng bạc (màu trắng). Quốc huy này được bổ sung từ Chief (huy hiệu), bộ phận chiếm phần ba phía trên. Đây là "Đứng đầu nước Pháp", được trao cho tất cả các "Bonnes Villes", thể hiện huy hiệu của các vương triều trước đây của họ: màu xanh lam với ba bông hoa vàng (nền màu xanh lam được trang trí bằng ba bông hoa loa kèn màu vàng).
Vào thế kỷ thứ 13, các thương hội bắt tay vào một cuộc nổi dậy chống lại quyền thế của Tổng giám mục-Bá tước Lyon. Những người này đã sử dụng các lá cờ riêng biệt với một con sư tử để tượng trưng cho sức mạnh của mình, khiến cho vua Philip V của Pháp buộc phải can thiệp vào cuộc xung đột năm 1320. Do sự can thiệp của nhà vua, thành phố phải phụ thuộc một cách trực tiếp vào Vương quốc Pháp, được đưa vào danh sách "Bonnes Villes" và nhận được huy hiệu khiên chắn (và cờ). Năm 1376, Vua Charles V đã đơn giản hóa huy hiệu, giảm xuống còn ba con số vô định của "fleurs de lys" mà cho đến nay vẫn bao trùm toàn bộ không gian của các kho vũ khí hoàng gia và huy hiệu chief của "Bonnes Villes". |
19,822,373 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822373 | Nestor Ivanovych Makhno | Nestor Ivanovych Makhno ( năm 1888 – 25 tháng 7 năm 1934), biệt danh Bat'ko Makhno ("Cha Makhno"), là một nhà cách mạng vô trị chủ nghĩa người Ukraina, và là thủ lĩnh Nghĩa quân Cách mạng Ukraina thời nội chiến Ukraina (1917-1921). |
19,822,381 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822381 | Terbi(III) oxide | Terbi(III) oxide, còn được gọi là terbi sesquioxide, là một oxide hóa trị ba của kim loại đất hiếm terbi, có công thức hóa học Tb2O3. Nó là một chất bán dẫn loại p, dẫn proton, tính bán dẫn được cải thiện khi pha tạp với calci. Nó có thể được điều chế bằng cách khử Tb4O7 trong hydro ở 1300 °C trong 24 giờ.
Nó là một oxide kiềm, dễ tan trong acid loãng, tạo ra muối terbi gần như không màu.
Hợp chất thuộc cấu trúc tinh thể lập phương và hằng số mạng là "a" = 1057 pm. |
19,822,384 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822384 | Công tước xứ Buccleuch | Công tước xứ Buccleuch ( ; tiếng Anh: "Duke of Buccleuch"), trước đây cũng được đánh vần là Công tước xứ Buccleugh, là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Scotland được lập ra hai lần, lần đầu tiên là vào ngày 20 tháng 4 năm 1663, trao cho James Scott, Công tước thứ nhất xứ Monmouth, và được lập ra lần thứ hai dưới hình thức "Suo jure" để trao cho vợ của ông là Anne Scott, Nữ bá tước thứ 4 xứ Buccleuch. Monmouth, con trai ngoài giá thú lớn tuổi nhất của Vua Charles II, đã bị bãi bỏ tước vị sau khi nổi dậy chống lại chú của mình là Vua James II và VII, nhưng tước hiệu của vợ ông không bị ảnh hưởng và được truyền lại cho con cháu của họ, những người lần lượt mang họ Scott, Montagu-Scott, Montagu là Douglas Scott và Scott. Năm 1810, Công tước thứ 3 xứ Buccleuch thừa kế Công tước xứ Queensberry, cũng thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland, do đó tách tước hiệu đó khỏi Hầu tước xứ Queensberry. |
19,822,388 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822388 | La Kim Phụng | La Kim Phụng (sinh năm 1970 tại Sài Gòn) là một siêu mẫu Việt Nam. Cô là một trong những tên tuổi hàng đầu của thời trang Việt Nam vào đầu thập niên 1990. Cô được mệnh danh là siêu mẫu đầu tiên của Việt Nam. |
19,822,391 | 725478 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822391 | Erbi(III) nitrat | Erbi(III) nitrat là một hợp chất vô cơ của erbi và acid nitric có công thức hóa học Er(NO3)3. Hợp chất tạo thành tinh thể màu hồng, dễ tan trong nước, cũng tạo thành tinh thể ngậm nước.
Điều chế.
Một cách đơn giản để điều chế erbi(III) nitrat là hòa tan erbi kim loại trong acid nitric:
Hoặc hòa tan erbi(III) oxide/erbi(III) hydroxide trong acid nitric:
Một cách khác là phản ứng của nitơ dioxide với erbi kim loại:
Tính chất vật lý.
Erbi(III) nitrat tạo thành tinh thể màu hồng, có tính hút ẩm.
Nó tạo thành tinh thể Er(NO3)3·5H2O hoặc Er(NO3)3·6H2O. Pentahydrat có cấu trúc giống Y(NO3)3·5H2O, các hằng số mạng tinh thể a = 0,6603 nm, b = 0,9516 nm, c = 1,052 nm, α = 63,65°, β = 84,6°, γ = 76,07°.
Cả erbi(III) nitrat khan và ngậm nước đều bị phân hủy khi đun nóng.
Hợp chất tan trong nước và EtOH.
Tính chất hóa học.
Erbi(III) nitrat ngậm nước bị phân hủy nhiệt để tạo thành ErONO3 và sau đó thành erbi(III) oxide.
Ứng dụng.
Nó được sử dụng để điều chế erbi kim loại và trong thuốc thử hóa học. |
19,822,409 | 889492 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822409 | Danh sách Hán tự thông dụng hiện đại | Danh sách Hán tự thông dụng hiện đại () là một danh sách gồm 7.000 Hán tự thông dụng trong tiếng Trung Hoa. Nó được lập nên vào năm 1988 dưới thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa"."
Còn có một danh sách khác có tên Hiện đại Hán ngữ thường dụng tự biểu () là một danh sách phụ gồm 3.500 Hán tự thường xuyên được sử dụng trong tiếng Trung.
Vào năm 2013, Danh sách Hán tự quy phạm chung đã thay thế "Danh sách Hán tự thông dụng hiện đại" làm các Hán tự tiêu chuẩn của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. |
19,822,414 | 725478 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822414 | Neodymi(III) hydroxide | Neodymi(III) hydroxide là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học Nd(OH)3. Chất rắn màu trắng hồng đến tím này không tan trong nước.
Điều chế.
Neodymi(III) nitrat và dung dịch amoni hydroxide sẽ phản ứng để tạo ra neodymium(III) hydroxide.
Nếu lượng Nd(NO3)3 là 40 g/L thì lượng amoni hydroxide cần dùng là 0,50 mol/L. Amoni hydroxide được trộn vào dung dịch Nd(NO3)3 với tốc độ 1,5 mL/phút với polyethylen glycol được sử dụng để kiểm soát pH. Quy trình sẽ tạo ra bột neodymium(III) hydroxide có kích thước hạt ≤ 1 μm.
Tính chất vật lý.
Neodymi(III) hydroxide có thể tạo thành kết tủa màu hồng đến tím hoặc trắng, không tan trong nước. Cấu trúc của Nd(OH)3 giống UCl3, thuộc hệ tinh thể lục phương, nhóm không gian "P"63"/m", các hằng số mạng tinh thể a = 0,6418 nm, c = 0,3743 nm, α = 90°, γ = 120°.
Tính chất hóa học.
Neodymium(III) hydroxide có thể phản ứng với acid, tạo ra muối neodymi(III):
Ví dụ, để tạo ra neodymi(III) acetat: |
19,822,419 | 885899 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822419 | Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia | Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Croatia (tiếng Serbia-Croatia: Socijalistička Republika Hrvatska / Социјалистичка Република Хрватска), thường viết tắt là SR Croatia hoặc chỉ gọi là Croatia, là một nước cộng hoà cấu thành của Nam Tư. Theo hiến pháp, Croatia hiện đại là sự tiếp nối trực tiếp của cộng hoà.
Cùng với năm nước cộng hòa Nam Tư khác, CHXHCN Croatia được thành lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai và trở thành một cộng hòa xã hội chủ nghĩa sau chiến tranh. Nhà nước có bốn tên chính thức đầy đủ trong suốt 48 năm tồn tại. Theo lãnh thổ và dân số, đây là nước cộng hòa lớn thứ hai tại Nam Tư, sau Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia.
Vào năm 1990, chính phủ đã dỡ bỏ hệ thống chính phủ độc đảng – được Liên đoàn Những người cộng sản thiết lập – và áp dụng một nền dân chủ đa đảng. Chính phủ mới được bầu của Franjo Tuđman chuyển nước cộng hòa thành quốc gia độc lập, chính thức ly khai khỏi Nam Tư vào năm 1991 và do đó góp phần giải thể liên bang.
Tên gọi.
Croatia trở thành một phần của liên bang Nam Tư vào năm 1943 sau Phiên họp thứ hai của AVNOJ và thông qua các nghị quyết của ZAVNOH, cơ quan thảo luận thời chiến của Croatia. Nước cộng hoà được chính thức thành lập với tên gọi "Nhà nước Liên bang Croatia" () vào ngày 9 tháng 5 năm 1944, tại phiên họp thứ 3 của ZAVNOH. Nam Tư khi đó được gọi là Liên bang Dân chủ Nam Tư ("Demokratska Federativna Jugoslavija", DFJ), đây không phải là một nhà nước xã hội chủ nghĩa theo hiến pháp, hay thậm chí là một nước cộng hòa trước khi chiến tranh kết thúc, khi những vấn đề này được giải quyết. Vào ngày 29 tháng 11 năm 1945, Liên bang Dân chủ Nam Tư trở thành Cộng hòa Nhân dân Liên bang Nam Tư ("Federativna Narodna Republika Jugoslavija", FNRJ), một nước cộng hòa nhân dân xã hội chủ nghĩa. Theo đó, Nhà nước Liên bang Croatia trở thành "Cộng hòa Nhân dân Croatia" ("Narodna Republika Hrvatska", "NR Hrvatska").
Vào ngày 7 tháng 4 năm 1963, Cộng hòa Nhân dân Liên bang Nam Tư (FPRY) được đổi tên thành Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư (SFRY). Nam Tư (và do đó là Croatia) dần dần từ bỏ chủ nghĩa Stalin sau chia rẽ Tito–Stalin vào năm 1948. Năm 1963, Cộng hòa Nhân dân Croatia cũng theo đó trở thành "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia".
Vào ngày 22 tháng 12 năm 1990, Hiến pháp mới được thông qua, theo đó Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia được đổi tên thành Cộng hòa Croatia. Theo hiến pháp này, Croatia trở nên độc lập vào ngày 25 tháng 6 năm 1991.
Thành lập.
Thế chiến II.
Trong những năm đầu tiên của thế chiến, Quân Du kích Nam Tư tại Croatia không được nhiều người Croat ủng hộ, ngoại trừ người Croat trong vùng Dalmatia của Croatia. Phần lớn quân du kích trên lãnh thổ Croatia là người Serb Croatia. Tuy nhiên, vào năm 1943, người Croat bắt đầu tham gia quân du kích với số lượng lớn hơn. Năm 1943, số lượng quân du kích người Croat tại Croatia tăng lên, vì vậy vào năm 1944, họ chiếm 61% số quân du kích trên lãnh thổ của Nhà nước Độc lập Croatia, trong khi người Serb chiếm 28%; tất cả các dân tộc khác chiếm 11% còn lại.
Vào ngày 13 tháng 6 năm 1943 tại Otočac, Lika, quân du kích Croatia đã thành lập ZAVNOH (Hội đồng Chống phát xít Quốc gia Giải phóng Nhân dân Croatia), một cơ quan lập pháp của nước cộng hòa Croatia trong tương lai của Nam Tư. Tổng thống đầu tiên của họ là Vladimir Nazor. Quân du kích Croatia có quyền tự chủ cùng với các quân du kích Slovenia và Macedonia. Tuy nhiên, vào ngày 1 tháng 3 năm 1945, họ được đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư lệnh Tối cao Quân đội Nam Tư, do đó mất quyền tự chủ.
Do các chiến thắng của quân du kích và lãnh thổ do họ nắm giữ tăng lên, AVNOJ quyết định tổ chức phiên họp thứ hai tại Jajce vào cuối tháng 11 năm 1943. Tại phiên họp đó, ban lãnh đạo cộng sản Nam Tư quyết định tái lập Nam Tư thành một quốc gia liên bang.
Hình thành.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 1945, Hội đồng Lập hiến Nam Tư tổ chức một phiên họp quyết định rằng Croatia sẽ được gia nhập cùng với năm nước cộng hòa khác tạo thành Nam Tư: Slovenia, Bosnia và Herzegovina, Montenegro, Serbia và Macedonia. Không lâu sau, Đảng Cộng sản bắt đầu truy tố những người phản đối hệ thống độc đảng cộng sản. Vào ngày 30 tháng 1 năm 1946, Hội đồng Lập hiến phê chuẩn Hiến pháp của Cộng hòa Nhân dân Liên bang Nam Tư. Croatia là nước cộng hòa cuối cùng có hiến pháp riêng, phần lớn giống với hiến pháp liên bang và các nước cộng hòa khác. Hiến pháp của Cộng hòa Nhân dân Croatia được Nghị viện Lập hiến của Cộng hòa Nhân dân Croatia thông qua vào ngày 18 tháng 1 năm 1947. Trong hiến pháp của họ, tất cả các nước cộng hòa đều bị tước quyền giành độc lập.
Các cộng hòa chỉ có quyền tự trị danh nghĩa; ban đầu, Nam Tư cộng sản là một quốc gia tập trung cao độ, dựa trên mô hình Xô viết. Các quan chức của Đảng Cộng sản đồng thời là các quan chức nhà nước, trong khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan cao nhất của đảng; tuy nhiên, các quyết định chính được đưa ra bởi Bộ Chính trị. Chính phủ của các nước cộng hòa chỉ là một bộ phận của cơ chế thi hành các quyết định của Bộ Chính trị.
Bầu cử.
Tại Nam Tư thời hậu chiến, những người cộng sản tranh giành quyền lực với phe đối lập ủng hộ Quốc vương Petra. Milan Grol là thủ lĩnh của phe đối lập; ông phản đối ý tưởng về một nhà nước liên bang, từ chối quyền có các nước cộng hòa của người Montenegro và người Macedonia, đồng thời cho rằng một thỏa thuận giữa Tito và Ivan Šubašić đảm bảo rằng phe đối lập cần phải có một nửa số ghế các bộ trưởng trong chính phủ mới. Đảng Nông dân Croatia (HSS) là một phần của phe đối lập, đã chia thành ba nhánh: một nhánh ủng hộ "Ustaše", nhánh còn lại ủng hộ những người cộng sản và nhánh thứ ba ủng hộ Vladko Maček. Tuy nhiên, những người cộng sản chiếm đa số trong quốc hội và kiểm soát quân đội, khiến phe đối lập không có bất kỳ quyền lực thực sự nào. Šubašić có những người ủng hộ riêng mình trong HSS và ông cố gắng đoàn kết đảng một lần nữa, tin rằng, một khi đoàn kết thì đó sẽ là một nhân tố chính trị lớn của đất nước. Đảng Nông dân Cộng hòa Croatia, một đảng tách ra khỏi HSS, muốn gia nhập Mặt trận Nhân dân, một tổ chức siêu chính trị do Đảng Cộng sản Nam Tư kiểm soát. Šubašić biết rằng điều này sẽ đặt HSS dưới quyền kiểm soát của những người cộng sản và kết thúc các cuộc đàm phán về việc thống nhất.
Trong chiến dịch bầu cử, các đảng đối lập muốn hợp nhất với Đảng Cấp tiến Serbia và các đảng khác; tuy nhiên, các hoạt động của cộng sản, sử dụng nhiều mưu kế khác nhau, đã phá hỏng kế hoạch của họ. Vào ngày 20 tháng 8 năm 1945, Grol từ chức và cáo buộc những người cộng sản phá vỡ thỏa thuận Tito–Šubašić. Bản thân Šubašić cũng sớm bị buộc phải từ chức vào cuối tháng 10 vì ông cũng đã tách mình ra khỏi Tito. Chẳng mấy chốc, những người cộng sản thắng cử. Họ giành được đa số tuyệt đối trong quốc hội, điều này cho phép họ tạo ra hình thức Nam Tư của riêng mình.
Chính phủ và chính trị.
Cộng hòa Nhân dân Croatia thông qua Hiến pháp đầu tiên của mình vào năm 1947. Năm 1953, "Luật Hiến pháp về các vấn đề cơ bản của tổ chức chính trị và xã hội và về các cơ quan thẩm quyền của nước Cộng hòa" sau đó trên thực tế là một hiến pháp hoàn toàn mới. Hiến pháp thứ hai (về mặt kỹ thuật là thứ ba) được thông qua vào năm 1963; họ đổi tên Cộng hòa Nhân dân Croatia (NRH) thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia (SRH). Những sửa đổi lớn về hiến pháp được thông qua vào năm 1971, và vào năm 1974, Hiến pháp mới của CHXHCN Croatia được ban hành, trong đó nhấn mạnh tình trạng quốc gia của Croatia với tư cách là một nước cộng hòa cấu thành của Nam Tư. Tất cả các hiến pháp và sửa đổi được thông qua bởi Nghị viện Croatia (). Sau cuộc bầu cử nghị viện đa đảng đầu tiên được tổ chức vào tháng 4 năm 1990, Nghị viện thực hiện nhiều sửa đổi hiến pháp và bỏ tên hiệu "xã hội chủ nghĩa" khỏi tên chính thức, vì vậy "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Croatia" rút gọn thành "Cộng hòa Croatia" (RH). Vào ngày 22 tháng 12 năm 1990, Nghị viện bác bỏ hệ thống độc đảng cộng sản và áp dụng chế độ dân chủ tự do thông qua Hiến pháp Croatia. Theo Hiến pháp này, nền độc lập sẽ được tuyên bố vào ngày 25 tháng 6 năm 1991 (sau Trưng cầu dân ý về độc lập của Croatia được tổ chức vào ngày 19 tháng 5 năm 1991).
Theo Điều 1.2 của Hiến pháp Croatia năm 1974, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia được định nghĩa là "nhà nước dân tộc của người Croatia, nhà nước của người Serbia tại Croatia và nhà nước của các dân tộc khác sinh sống tại đây".
Giai đoạn Tito.
Nhà lãnh đạo nhà nước đầu tiên sau chiến tranh của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Croatia là Vladimir Nazor (thực ra là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Nghị viện Cộng hòa Nhân dân Croatia), trong chiến tranh, ông là Chủ tịch của Hội đồng Chống phát xít Nhà nước Giải phóng Nhân dân Croatia (ZAVNOH), trong khi người đứng đầu chính phủ đầu tiên là Vladimir Bakarić. Mặc dù những người cộng sản thúc đẩy chủ nghĩa liên bang, nhưng Nam Tư sau chiến tranh vẫn được tập trung hóa nghiêm ngặt. Cơ quan chính yếu là Bộ chính trị Uỷ ban trung ương Đảng Cộng sản Croatia (từ năm 1952 là Liên đoàn Những người cộng sản Croatia) gồm khoảng mười người. Các thành viên của họ được chỉ định vào một số lĩnh vực nhất định: một người kiểm soát lực lượng vũ trang, người kia kiểm soát sự phát triển của nhà nước, người thứ ba kiểm soát nền kinh tế, v.v. Bề ngoài, hệ thống chính phủ là dân chủ đại diện: người dân sẽ bầu ra các ủy viên hội đồng và thành viên của nghị viện. Tuy nhiên, quyền lực thực sự nằm trong tay các cơ quan hành pháp. Các cơ quan đại diện (Nghị viện và các hội đồng khác nhau ở cấp địa phương và huyện) chỉ phục vụ tính hợp pháp cho các quyết định của họ. Đảng cai trị CHXHCN Croatia là chi nhánh của Đảng Cộng sản Nam Tư gọi là Đảng Cộng sản Croatia (KPH). Mặc dù đảng mang tên Croatia, nhưng thành viên của nó chỉ có 57% là người Croatia, cùng với 43% là người Serb. Phần lớn các thành viên là nông dân và phần lớn được giáo dục không hoàn chỉnh.
Ngay sau khi giành được quyền lực, những người Cộng sản bắt đầu bức hại các cựu quan chức của Nhà nước Độc lập Croatia để khiến họ phải thỏa hiệp. Vào ngày 6 tháng 6 năm 1946, Tòa án Tối cao của CHXHCN Croatia kết án một số quan chức hàng đầu của NDH, bao gồm Slavko Kvaternik, Vladimir Košak, Miroslav Navratil, Ivan Perčević, Mehmed Alajbegović, Osman Kulenović và những người khác. Những người cộng sản cũng có một số phiên tòa lớn nhỏ nhằm đối phó với chế độ phát xít NDH. Ngoài ra, các nhà lãnh đạo địa phương của các đảng dân sự thường "biến mất" mà không có bất kỳ nhân chứng nào. Những người cộng sản không chỉ thanh trừng các quan chức đang làm việc cho NDH mà cả những người ủng hộ Đảng Nông dân Croatia và Giáo hội Công giáo.
Đảng dân sự lớn duy nhất ở Croatia là Đảng Nông dân Cộng hòa Croatia, chỉ hoạt động vài năm sau cuộc bầu cử, nhưng với tư cách là một vệ tinh của Đảng Cộng sản. Cuộc đụng độ với các lực lượng dân sự chống cộng sản đã kích thích tính tập trung và chủ nghĩa độc tài của Đảng Cộng sản.
Khi lên nắm quyền, Tito biết rằng mối đe dọa lớn nhất đối với sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản ở Nam Tư là chủ nghĩa dân tộc. Do đó, những người cộng sản sẽ đè bẹp ngay cả một hình thức chủ nghĩa dân tộc nhỏ nhất bằng cách đàn áp. Những người cộng sản nỗ lực hết sức nhằm đè bẹp chủ nghĩa dân tộc tại Bosnia và Herzegovina và Croatia, đồng thời cố gắng dập tắt sự thù hận giữa người Croatia, người Serb và người Hồi giáo, nhưng ngay cả như vậy, những người ủng hộ lớn nhất của họ trong quá trình này là người Serb địa phương. Không lâu sau, người Serb chiếm đa số trong ban lãnh đạo đảng và nhà nước Croatia và Bosnia.
Sau khi Tito mất.
Năm 1980, Josip Broz Tito qua đời. Những khó khăn về chính trị và kinh tế bắt đầu gia tăng và chính phủ liên bang bắt đầu sụp đổ. Chính phủ liên bang nhận ra rằng họ không thể trả lãi cho các khoản vay của mình và bắt đầu đàm phán với IMF kéo dài trong nhiều năm. Các cuộc luận chiến công khai tại Croatia liên quan đến nhu cầu giúp đỡ các vùng nghèo và kém phát triển trở nên thường xuyên hơn, vì Croatia và Slovenia đóng góp khoảng 60% số tiền đó. Cuộc khủng hoảng nợ, cùng với lạm phát tăng vọt, buộc chính phủ liên bang phải đưa ra các biện pháp như luật ngoại tệ đối với thu nhập của các hãng xuất khẩu. Ante Marković, một người Croat từ Bosnia vào thời điểm đó là người đứng đầu chính phủ Croatia, nói rằng Croatia sẽ mất khoảng 800 triệu đô la vì luật đó. Marković trở thành người đứng đầu chính phủ cuối cùng của Nam Tư vào năm 1989 và dành hai năm để thực hiện nhiều cải cách kinh tế và chính trị. Những nỗ lực của chính phủ của ông ban đầu đã thành công, nhưng cuối cùng chúng thất bại do bất ổn chính trị nan y của Nam Tư.
Căng thẳng sắc tộc ngày càng gia tăng và sẽ dẫn đến sự sụp đổ của Nam Tư. Cuộc khủng hoảng ngày càng gia tăng tại Kosovo, Bản ghi nhớ của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Serbia chủ nghĩa dân tộc, sự nổi lên của Slobodan Milošević với tư cách là nhà lãnh đạo của Serbia, và mọi thứ khác sau đó đã gây ra một phản ứng rất tiêu cực. Rạn nứt kéo dài 50 năm bắt đầu nổi lên, và người Croatia ngày càng bắt đầu thể hiện tình cảm dân tộc của mình và bày tỏ sự phản đối đối với chế độ Beograd.
Vào ngày 17 tháng 10 năm 1989, nhóm nhạc rock "Prljavo kazalište" đã tổ chức một buổi hòa nhạc lớn trước gần 250.000 người tại quảng trường trung tâm thành phố Zagreb. Do hoàn cảnh chính trị đang thay đổi, bài hát của họ "Mojoj majci" ("Gửi mẹ tôi"), trong đó nhạc sĩ ca ngợi người mẹ trong bài hát là "bông hồng cuối cùng của Croatia", đã được lòng những người hâm mộ vì lòng yêu nước được bày tỏ. Vào ngày 26 tháng 10, Nghị viện tuyên bố Ngày Các Thánh (1 tháng 11) là một ngày nghỉ lễ.
Vào tháng 1 năm 1990, trong Đại hội lần thứ 14 của Liên đoàn Những người cộng sản Nam Tư, phái đoàn của Serbia do Milošević dẫn đầu đã nhất quyết thay thế chính sách hiến pháp năm 1974 trao quyền cho các nước cộng hòa bằng chính sách "một người, một phiếu bầu", điều này sẽ có lợi cho người Serb chiếm đa số. Điều này khiến phái đoàn Slovenia khởi đầu và sau đó là Croatia (lần lượt do Milan Kučan và Ivica Račan dẫn đầu) rời Đại hội để phản đối và đánh dấu đỉnh điểm sự rạn nứt của đảng cầm quyền.
Dân tộc Serb chiếm 12% dân số Croatia, bác bỏ quan điểm tách khỏi Nam Tư. Các chính trị gia người Serb lo sợ mất ảnh hưởng mà họ có trước đây thông qua tư cách thành viên của Liên đoàn Những người cộng sản ở Croatia (mà một số người Croatia tuyên bố là họ có đại diện không tương xứng). Những ký ức về Chiến tranh thế giới thứ hai được gợi lên bởi những lời hùng biện đến từ chính quyền Beograd. Khi Milošević và nhóm của ông thúc đẩy làn sóng chủ nghĩa dân tộc Serbia trên khắp Nam Tư, nói về các trận chiến vì quốc gia Serb, nhà lãnh đạo mới nổi của Croatia Franjo Tuđman đã đáp lại bằng cách nói về việc biến Croatia thành một quốc gia dân tộc. Sự sẵn có của các phương tiện thông tin đại chúng cho phép tuyên truyền được lan truyền nhanh chóng và châm ngòi cho chủ nghĩa hiếu chiến và chứng sợ hãi, tạo ra bầu không khí chiến tranh.
Vào tháng 2 năm 1990, CHXHCN Croatia đã thay đổi hệ thống hiến pháp của mình sang hệ thống đa đảng.
Vào tháng 3 năm 1991, Quân đội Nhân dân Nam Tư đã gặp Tổng thống Nam Tư (một hội đồng tám thành viên bao gồm đại diện từ sáu nước cộng hòa và hai tỉnh tự trị) trong một nỗ lực để khiến họ tuyên bố tình trạng khẩn cấp, sẽ cho phép quân đội nắm quyền kiểm soát đất nước. Các đại biểu Serbia và do người Serb thống trị (Montenegro, Vojvodina và Kosovo) đồng ý với quân đội, đã bỏ phiếu thuận cho đề xuất này, nhưng khi đại biểu của Croatia, Slovenia, Macedonia và Bosnia bỏ phiếu chống, âm mưu đã thất bại.
Chuyển đổi sang độc lập.
Cuộc bầu cử nghị viện Croatia năm 1990 được tổ chức vào ngày 22 tháng 4 và ngày 6 tháng 5 năm 1990. Sau cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên, việc thành lập một nước cộng hòa cấu thành dựa trên các thể chế dân chủ đã diễn ra.
Sau cuộc bầu cử tự do đầu tiên, vào tháng 7 năm 1990, tiền tố "xã hội chủ nghĩa" đã bị loại bỏ và sau đó Croatia được đặt tên là Cộng hòa Croatia.
Franjo Tuđman được bầu làm tổng thống và chính phủ của ông bắt tay vào con đường hướng tới độc lập của Croatia.
Kinh tế.
Mô hình và lý thuyết kinh tế.
Nền kinh tế của CHLBXHCN Nam Tư và do đó của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia ban đầu chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Vì Đảng Cộng sản Nam Tư là thành viên của Quốc tế Cộng sản, những người cộng sản Nam Tư nghĩ rằng con đường Liên Xô đi tới chủ nghĩa xã hội là lựa chọn duy nhất để tạo nên một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong những năm đầu của CHLBXHCN Nam Tư, các đảng viên cộng sản đã đàn áp những người chỉ trích Liên Xô và nuôi dưỡng thiện cảm với nước này.
Những người cộng sản Nam Tư thường cho rằng sở hữu nhà nước và chủ nghĩa tập trung là cách duy nhất để tránh đổ vỡ kinh tế, và nếu không có sở hữu nhà nước và kiểm soát hành chính thì không thể tích lũy các nguồn lực lớn về vật chất và con người để phát triển kinh tế. Vì mọi quốc gia chưa phát triển đều cần nguồn tài nguyên khổng lồ để bắt đầu phát triển, và Nam Tư nằm trong số đó, nên những người cộng sản nghĩ rằng đây là cách duy nhất để cứu nền kinh tế của Nam Tư. Ngoài ra, hệ tư tưởng của họ bao gồm việc loại bỏ khu vực tư nhân, vì họ cho rằng một hệ thống kinh tế như vậy là điều bị đào thải trong lịch sử.
Kinh tế thời chiến.
Quá trình quốc hữu hóa đầu tiên bắt đầu vào ngày 24 tháng 11 năm 1944, khi các đảng viên Nam Tư tước đoạt tài sản của kẻ thù. Nạn nhân đầu tiên của vụ tịch thu là những người chiếm đóng và tội phạm chiến tranh. Tuy nhiên, không lâu sau, tài sản của 199.541 người dân tộc Đức, tức toàn bộ người Đức thiểu số, bao gồm 68.781 ha đất, cũng bị tịch thu. Cho đến khi chiến tranh kết thúc, nhà nước kiểm soát 55% công nghiệp, 70% khai thác mỏ, 90% luyện kim màu và 100% ngành công nghiệp dầu mỏ.
Đổi mới nền kinh tế.
Trong CHXHCN Croatia, thiệt hại và tổn thất vật chất trong thế chiến ở mức cao. Trong chiến tranh, CHXHCN Croatia mất 298.000 người, chiếm 7,8% tổng dân số. Do chiến tranh du kích kéo dài 4 năm, các vụ đánh bom, khai thác quá mức nguyên liệu thô và tài nguyên nông nghiệp, đồng thời phá hủy các con đường và cơ sở công nghiệp, nên nhà nước rơi vào tình trạng hỗn loạn kinh tế. Giai cấp nông dân cung cấp cho tất cả các bên xung đột trong cuộc chiến đã bị tàn phá và thiệt hại về người cũng ở mức cao. Thiệt hại về công nghiệp tại Nam Tư là tồi tệ nhất trên toàn châu Âu, trong đó CHXHCN Croatia nằm trong số các nước cộng hòa bị thiệt hại nặng nề nhất của Nam Tư, cùng với Bosna và Herzegovina và Montenegro. Nhà cầm quyền cộng sản cần phải làm gì đó để ngăn chặn nạn đói, tình trạng mất trật tự và hỗn loạn. Nam Tư thiếu lao động có trình độ, vì vậy sự đổi mới của nền kinh tế chủ yếu dựa vào công việc tình nguyện quần chúng. Việc tuyển dụng cho các công việc tình nguyện được tiến hành bằng tuyên truyền về một tương lai cộng sản tốt đẹp hơn, đặc biệt là trong các thành viên du kích và thanh niên Nam Tư. Một bộ phận khác của những người lao động này là những người sợ bị ngược đãi, chủ yếu là những người phản đối chế độ cộng sản và những người cộng tác với Đức Quốc xã. Họ tham gia lao động tình nguyện để thoát khỏi sự ngược đãi. Bộ phận thứ ba của lực lượng lao động bao gồm các tù nhân chiến tranh, họ là những người làm các công việc nặng nhọc nhất.
Việc phân phối thực phẩm và vật liệu cần thiết cho ngành công nghiệp phụ thuộc vào tốc độ làm mới nhanh chóng những con đường bị hư hỏng. Tuyến đường sắt Zagreb-Belgrade được tái thiết cả ngày lẫn đêm, vì vậy chuyến tàu đầu tiên đi trên tuyến đường sắt này thời hậu chiến đã hoàn thành vào cuối tháng 6 năm 1945. Các bãi mìn cũng được rà phá.
Mặc dù quan hệ giữa các nước phương Tây và Nam Tư rất căng thẳng, nhưng sự trợ giúp đáng kể cho người dân Nam Tư đã đến từ UNRRA, một cơ quan viện trợ của Mỹ được thành lập trong vai trò một chi nhánh của Liên Hợp Quốc. Họ phân phát thực phẩm, quần áo và giày dép giúp những người cộng sản tránh khỏi nạn đói. Từ năm 1945 đến 1946, UNRRA đã triển khai 2,5 triệu tấn hàng hóa, chủ yếu là thực phẩm, trị giá 415 triệu USD. Số tiền này tương đương hai lần nhập khẩu của Vương quốc Nam Tư vào năm 1938, hay 135% doanh thu thuế của nước này. Người ta thường cho rằng UNRRA đã cung cấp thức ăn và quần áo cho khoảng 5 triệu người.
Cải cách nông nghiệp.
Đồng thời với việc đàn áp các kẻ thù chính trị, chính quyền cộng sản đã tiến hành Cải cách ruộng đất, một cuộc cải cách được thực hiện vào ngày 23 tháng 8 năm 1945. Quá trình này bao gồm việc tước quyền sở hữu của những công dân và nông dân giàu có. Cải cách ruộng đất làm thay đổi quan hệ sở hữu tài sản nông nghiệp. Đất trên 35 acre được lấy từ chủ sở hữu. Gần một nửa số đất bị lấy được chuyển thành đất nông nghiệp (tài sản nhà nước), trong khi nửa còn lại được trao cho nông dân nghèo. Cuộc cải cách này cũng bao gồm việc di cư đến CHXHCN Croatia, nơi người dân từ những khu vực lạc hậu chuyển đến những khu vực mà người dân tộc Đức đã bị trục xuất. Ở CHXHCN Croatia, quá trình thuộc địa hóa diễn ra ở Slavonia, trong khi những người di cư là nông dân nghèo, chủ yếu là người Serb tại Croatia và người Serb tại Bosnia. Việc tịch thu tài sản cũng được tiến hành; những người buôn bán trong chiến tranh được tuyên bố là những kẻ trục lợi trong chiến tranh và bằng cách này, nhà nước đã giành được các nhà máy, ngân hàng và cửa hàng lớn.
Những người cộng sản cũng giới thiệu một phương thức phân phối nông sản mới. Để cung cấp cho những người sống ở các thị trấn và thành phố, họ đã giới thiệu chế độ mua lại những sản phẩm đó. Chính sách phân phối dựa trên ý tưởng rằng bộ phận lao động của xã hội nên có lợi thế về số lượng và sự đa dạng hàng hóa so với bộ phận không lao động, ký sinh. Điều này dẫn đến sự phát triển của thị trường chợ đen và đầu cơ.
Bước kế tiếp trong việc thực hiện cải cách ruộng đất là quốc hữu hóa các tài sản lớn của thành phần dân cư tư sản. Vào ngày 28 tháng 4 năm 1948, khi các cửa hàng nhỏ và phần lớn ngành thủ công được quốc hữu hóa, khu vực tư nhân tại CHXHCN Croatia đã bị thanh lý đến cùng; trong số 5.395 cửa hàng tư nhân, chỉ có 5 cửa hàng còn hoạt động. Quyết định này là một con dao hai lưỡi: trong khi bộ phận người nghèo trong xã hội hài lòng với nó, thì phần lớn dân chúng lại phản kháng và sẵn sàng nổi dậy. Giống như tại Liên Xô, nhà nước kiểm soát toàn bộ nền kinh tế, trong khi thương mại tự do bị cấm để ủng hộ kế hoạch hóa tập trung. Do đó, nhà nước bắt đầu phân phối hợp lý các nhu yếu phẩm cho cuộc sống, được phân phối cho người dân, trong khi người tiêu dùng nhận được một số lượng tem phiếu nhất định mỗi tháng để mua một lượng hàng hóa nhất định, bao gồm thực phẩm, quần áo và giày dép.
Vào mùa xuân năm 1949, nhà nước áp dụng các loại thuế cao đối với nền kinh tế tư nhân của nông dân khiến nông dân không có khả năng chi trả. Điều này buộc họ phải tham gia vào các liên đoàn lao động nông dân, được thành lập dựa trên các kolhoz của Liên Xô. Theo cách này, nhà nước đã tiến hành tập thể hóa cưỡng bức các làng xã. Quá trình tập thể hóa này sớm làm thất vọng những nông dân nghèo, những người được cấp đất miễn phí trong quá trình tước đoạt từ những nông dân giàu có. Mặc dù những người cộng sản nghĩ rằng tập thể hóa sẽ giải quyết vấn đề lương thực, nhưng ngược lại, tập thể hóa đã tạo ra cái gọi là "Khủng hoảng bánh mì" vào năm 1949. Quá trình tước đoạt ở Nam Tư kéo dài từ giữa năm 1945 đến cuối năm 1949. Đây là quá trình tước đoạt nhanh nhất, thậm chí khi so với các quốc gia cộng sản Đông Âu.
Đối với quá trình này, nhà nước cần một số lượng lớn quan chức là đảng viên Đảng Cộng sản, nhận lệnh từ Bộ Chính trị, do đó khiến nước cộng hòa Nam Tư không có bất kỳ quyền lực nào trong nền kinh tế. Nền kinh tế của một nước cộng hòa phụ thuộc vào các quyết định của Bộ Chính trị ở Beograd, do đó Nam Tư trở thành một quốc gia tập trung nghiêm ngặt. Hơn nữa, việc thanh lý khu vực tư nhân, thanh lọc bộ máy nhà nước và các quan chức cấp cao và thay thế họ bằng những đảng viên có học thức không hoàn chỉnh, giảm mạnh khoảng cách giữa tiền lương của bộ trưởng và công nhân (3:1), cùng sự di cư và cái chết của giai cấp tư sản dẫn đến tầng lớp trung lưu biến mất trong cơ cấu xã hội, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.
Công nghiệp hoá.
Kế hoạch 5 năm.
Công nghiệp hóa là quá trình quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế của CHXHCN Croatia, do những người cộng sản thúc đẩy công nghiệp hóa làm nhân tố chính cho sự phát triển nhanh chóng. Sau quá trình đổi mới, quá trình công nghiệp hóa và điện khí hóa bắt đầu theo mô hình Xô viết. Andrija Hebrang phụ trách toàn bộ nền kinh tế, tạo ra một hệ thống và xây dựng chiến lược phát triển trong Kế hoạch 5 năm. Với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Kinh tế và Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch, Hebrang phụ trách tất cả các bộ liên quan đến kinh tế. Cùng với Tito, Edvard Kardelj và Aleksandar Ranković, ông là người có ảnh hưởng nhất tại Nam Tư. Với tư cách là người đứng đầu toàn bộ nền kinh tế, Hebrang đã hoàn thành Kế hoạch 5 năm của mình vào mùa đông 1946–47, được chính phủ phê duyệt vào mùa xuân năm 1947. Vì thiếu kiến thức, Kế hoạch này sao chép mô hình của Liên Xô. Các nhà máy được xây dựng nhanh hơn là các nhà máy thuộc lĩnh vực công nghiệp nặng và công nghiệp quân sự, trong đó nổi tiếng nhất tại CHXHCN Croatia là "Rade Končar" và "Prvomajska".
Trong Kế hoạch 5 năm, Hebrang muốn tăng sản lượng công nghiệp lên 5 lần và sản xuất nông nghiệp lên 1,5 lần, tăng GDP bình quân đầu người lên 1,8 lần và thu ngân sách quốc gia lên 1,8 lần. Kế hoạch này cũng bao gồm việc tăng số lao động có trình độ, từ 350.000 lên 750.000. Đối với CHXHCN Croatia, người ta đã quyết định rằng sản lượng công nghiệp của nước này cần phải tăng thêm 452%. Công nghiệp phát triển nhanh đòi hỏi số lượng công nhân cao, từ 461.000 công nhân vào năm 1945, đến năm 1949 đã có 1.990.000 công nhân. Vào ngày 17 tháng 1 năm 1947, Kardelj tuyên bố với Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Croatia rằng Nam Tư sẽ mạnh hơn về mặt công nghiệp so với Áo và Tiệp Khắc. Cả Kardelj và Bakarić đều ủng hộ phát triển công nghiệp nhẹ, thay vì ý tưởng của Hebrang về công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Kế hoạch 5 năm thực sự đã được phóng đại; kế hoạch này không có nhân sự có trình độ, thị trường và vốn; mặc dù vậy, nhà nước vẫn tiếp tục thực hiện nó.
Trên khắp đất nước, nhà nước xây dựng các công trình, và tất cả các dự án công nghiệp hóa và điện khí hóa được thực hiện với tuyên truyền rằng người dân sẽ giảm nghèo đói và thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp thực sự đã giảm, tuy nhiên, những người lao động mới không được đào tạo để làm việc, vì vậy nhiều công trình được xây dựng chậm và nhiều công trình trong số đó không được xây dựng. Theo quan điểm khi đó của Đảng Cộng sản, vai trò lãnh đạo nền kinh tế được trao cho tổng cục trưởng, đó là một liên kết giữa các bộ và ban lãnh đạo của Đảng. Bằng cách thực hiện chúng, nhà nước thậm chí còn giành được quyền kiểm soát lớn hơn đối với nền kinh tế. Các công ty có pháp nhân của họ; tuy nhiên, họ không có quyền tự chủ hoạt động, vì họ có tư cách là cơ quan nhà nước, chịu sự kiểm soát của nhà nước.
Tôn giáo.
Phần lớn cư dân là tín đồ Công giáo La Mã và khoảng 12% dân số là tín đồ Cơ đốc giáo Chính thống của Thượng phụ Serbia, với một số ít người theo các tôn giáo khác. Do mối quan hệ căng thẳng giữa Tòa thánh và các quan chức cộng sản Nam Tư, không có giám mục Công giáo mới nào được bổ nhiệm tại Cộng hòa Nhân dân Croatia cho đến năm 1960. Điều này khiến các giáo phận Križevci, Đakovo-Osijek, Zadar, Šibenik,Split-Makarska, Dubrovnik, Rijeka và Poreč-Pula không có giám mục trong vài năm. Từ giữa những năm 1950, chỉ có bốn giám mục đương nhiệm tại Croatia trong ba giáo phận: Aloysius Stepinac, Franjo Salis-Seewiss, Mihovil Pušić, và Josip Srebrnič.
Nhiều linh mục bị buộc tội hợp tác với Ustaše và phe Trục trong Thế chiến II đã bị bắt sau khi Thế chiến II kết thúc, trong bối cảnh xung đột giữa Giáo hội Công giáo và Đồng minh, bao gồm cả Tổng giám mục của Zagreb là Aloysius Stepinac. Aloysius Stepinac bị bắt vào ngày 16 tháng 9 năm 1946. Ông bị kết án 16 năm tù, nhưng vào tháng 12 năm 1951 ông được trả tự do để quản thúc tại nhà riêng ở Krašić gần Jastrebarsko, nơi ông qua đời vào năm 1960. Stepinac được Giáo hoàng Pious XII phong làm hồng y vào năm 1953. |
19,822,421 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822421 | Danh sách Hán tự quy phạm chung | Danh sách Hán tự quy phạm chung () là danh sách tiêu chuẩn hiện tại gồm 8.105 Hán tự, được phát hành bởi chính phủ của Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa công bố và ban hành vào tháng 6 năm 2013.
Trong số các ký tự bao gồm, có 3.500 ký tự ở Cấp I và được chỉ định là các ký tự thường xuyên sử dụng, giảm đi so với 7.000 ký tự trong "Danh sách Hán tự thông dụng hiện đại" trước đó; Cấp II bao gồm 3,000 ký tự được chỉ định là các ký tự thông dụng nhưng ít sử dụng hơn so với các ký tự Cấp I; Cấp III bao gồm các ký tự thường được sử dụng trong tên và thuật ngữ. Danh sách cũng cung cấp một bảng tương ứng giữa 2.546 ký tự Giản thể và 2.574 ký tự Phồn thể, cùng với các biến thể được lựa chọn khác, phục vụ một cách hiệu quả như hệ thống tiêu chuẩn ký tự Phồn thể của Trung Quốc Lục Địa.
Các ký tự phi-BMP.
Trong Unicode, một số ký tự trong "Danh sách Hán tự quy phạm chung" được định vị ngoài mặt phẳng đa ngữ cơ bản (BMP). |
19,822,424 | 328188 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822424 | Hà Văn Đại | Hà Văn Đại đỗ Phó bảng, làm quan lại trong triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, sau đó tham gia trong chính quyền cách mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa với chức vụ Chánh án Tòa án đệ nhị cấp Hà Tĩnh.
Tiểu sử.
Hà Văn Đại sinh năm 1896 tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, là con trai cả của cụ Hà Văn Kỳ, một nhà nho yêu nựớc, từng tham gia phong trào Cần Vương và đã bị bắt giam nhiều lần. Cụ Hà Văn Kỳ có lối sống cần kiệm nhưng tính tình khảng khái, trọng nghĩa khinh tài, khi cần cứu giúp người thì không tiếc sức, tiếc của. Các con cụ đều chịu ảnh hưởng đức tính cao quý ấy.
Sau những năm đầu học chữ Hán với cha mình, đến 16 tuổi, Hà Văn Đại được gửi vào Huế học chữ Hán và cả chữ Pháp. Năm 19 tuổi Hà Văn Đại đỗ cử nhân và đến 23 tuổi thì đỗ Phó bảng khoa Kỷ Mùi năm Khải Định thứ tư (1919), khoa thi cuối cùng của nền khoa cử Hán học.
Vào khoảng 1925, sau khi cụ Phan Bôi Châu bị thực dân Pháp đưa về “an trí” ở Huế, cụ Phan Chu Trinh cũng đã về nước, phong trào chính trị ở cả 3 miền bùng lên sôi nổi. Hà Văn Đại liên lạc với những trí thức Tân tộc như thầy giáo Võ Liêm Sơn, Đốc học Lê Ấm (con rể cụ Phan Chu Trinh), Đốc học Nguyễn Đình Ngân, thầy giáo trường tư Đặng Chánh Kỷ, nhà viết báo Đào Duy Anh... cùng nhau lập nhóm tọa đàm về thời cuộc, thảo luận về văn thơ yêu nước của Phan Sào Nam, các tác phẩm của Mạnh-đức-tư-cưu, Lư thoa... và của Mác và Lênỉn.
Cuối 1926, được Võ Liêm Sơn và Đào Duy Anh giới thiệu, Hà Văn Đại tham gia Việt Nam Cách mạng đồng chí Hội (sau đổi thành đảng Tân Việt), sinh hoạt trong tiểu tổ của nhũng người làm ở nhà in báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Giữa năm 1929, tiểu tổ này bị lộ, mỗi người một ngả. Hà Văn Đại tiếp tục cuộc đời một viên chức hạng thấp của Nam triều là Thừa phái bộ Công. Hơn 10 năm sau ông được bổ làm tri huyện Nghĩa Hành, một huyện miền núi Quảng Ngãi.
Đầu năm 1939, Mặt trận Bình dân ở Pháp sụp đổ, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, quân Nhật kéo vào Đông Dương, thực dân Pháp cùng phát xít Nhật ra sức khủng bố cách mạng Việt Nam. Bắt đầu từ những năm 40, Hà Văn Đại được điều lên cấp tỉnh.
Năm 1943, khi ông đang giữ chức Án sát tỉnh Thanh Hóa, một số người thân Nhật ở địa phương muốn lợi dụng uy tín của Hà Văn Đại, có tiếng là một vị thanh quan, đã ra sức vận động ông vào đảng Đại Việt, nhưng ông cương quyết từ chối.
Khi nạn đói ngày càng trầm họng, Hà Văn Đại, đang làm Bố chánh Nghệ An, đã tích cực tham gia cứu đói. Ngoài việc cứu tế chung cho nhân dân trong tỉnh, ông tìm hết cách lo được 2,6 tấn gạo chở về Tiên Điền góp phần cứu đói cho đồng bào xã nhà.
Cuộc đảo chính ngày 09/3/1945 của quân Nhật diễn ra ở Vinh một cách nhanh gọn. Chính phủ Trần Trọng Kim vừa mới ra đời đã điều ngay Hà Văn Đại ra làm Tỉnh trưởng Thanh Hóa. Ngày 23/7/1945 tại phủ Hoàng Hóa, dân chúng bắt viên Tri huyện đang đi hành hạt, tước khí giới của lính bảo an rồi xông vào phủ lỵ tịch thu hết tiền bạc và súng đạn. Được tin, quân đội Nhật đang đóng tại thị xã Thanh Hóa, tức tốc định dùng vũ lực triệt hạ 2 xã Hải Châu và Hòa Lộc. Tỉnh trưởng Hà Văn Đại vội tìm cách ngăn chặn. Ông viện lý: việc này thuộc phạm vi cai trị của Nam triều, quân đội Nhật không có lý do gì để can thiệp. Cuộc tranh luận trở nên gay gắt nhưng cuối cùng phía Nhật chịu nhượng bộ. Vì thế dân 2 xã nói trên được bảo vệ an toàn.
Đầu tháng 8/1945, Chính phủ Trần Trọng Kim phế truất Tuần vũ Hà Tĩnh Nguyễn Khoa Nghi và Bố chánh Hà Tĩnh Đặng Thành Đôn vì tội tham nhũng và bất lực, ông Hà Văn Đại được điều về làm Tỉnh trưởng (Tuần vũ) Hà Tĩnh.
Cách mạng tháng Tám nổ ra, do có cảm tình với Việt Minh nên Hà Văn Đại đã tạo điều kiện thuận lợi việc bàn giao chính quyền cho Cách mạng.
Tháng 2-1946, ông được chính quyền cách mạng mời ra nhận chức Chánh án Tòa án đệ nhị cấp Hà Tĩnh, với nhiệm vụ tổ chức lại bộ máy tư pháp và phụ trách công tác xét xử của Tòa án trong tỉnh. Ông vui vẻ nhận lời và trở thành một người cán bộ gương mẫu của chính quyền cách mạng.
Năm 1955, ông được điều ra Hà Nội công tác ở Bộ Tư pháp, sau đó ở Tòa án tối cao. Đến giữa năm 1960, theo yêu cầu của việc dịch thuật và nghiên cứu Hán nôm của Nhà nước, ông chuyển sang Viện Văn học, công tác trong tổ nghiên cứu văn học cổ đại và cận đại Việt Nam. Lúc này ông có điều kiện phát huy sở học của mình. Ông tham gia biên dịch nhiều tác phẩm, như: "Thơ văn Lý - Trần, Thơ văn yêu nước Việt Nam, Thơ Nguyễn Xuân Ôn...," về văn xuôi có "Hiển học Khổng Mặc" là một công trình nghiên cứu về triết học Trung Quốc.
Là một nhà Hán học vững vàng, bên cạnh việc dịch thuật, ông còn tham gia nghiên cứu và hiệu đính các công trình của nhiều người khác.
Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì.
Đầu năm 1963, lúc đã 67 tuổi, ông về nghỉ hưu tại Hà Nội.
Ông mất ngày 4 tháng 6 năm 1964 tại Hà Nội, thọ 68 tuổi.
Đời tư.
Vợ ông là bà Nguyễn Thị Khuê, cháu nội Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn, thủ lĩnh phong trào Cần vương ở Nghệ An.
Ông có một người con là Hà Văn Mạo, Giáo sư, Tiến sĩ y khoa, Thầy thuốc nhân dân; và một người cháu (gọi ông bằng bác ruột) là Hà Văn Tấn, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân, Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học. |
19,822,451 | 808250 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822451 | Serie A 2023–24 | Serie A 2023–24 (được gọi là Serie A TIM vì lý do tài trợ) là mùa giải thứ 122 của hạng đấu cao nhất bóng đá Ý, lần thứ 92 của một giải đấu vòng tròn tính điểm, và lần thứ 14 kể từ khi nó được tổ chức dưới một ủy ban giải đấu riêng, Lega Serie A. Napoli là nhà đương kim vô địch.
Các đội bóng.
Spezia , Cremonese và Sampdoria lần lượt xuống hạng sau 3, 1 và 11 năm chơi ở Serie A. Họ bị thay thế bởi Frosinone , Genoa và Cagliari . Frosinone trở lại Serie A sau 4 năm vắng bóng, trong khi Genoa và Cagliari đều trở lại sau 1 năm vắng bóng.
Bảng xếp hạng.
<onlyinclude></onlyinclude> |
19,822,452 | 686003 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822452 | Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1884 | Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1884 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 25, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 4 tháng 11 năm 1884. Trong cuộc bầu cử này, Thống đốc Đảng Dân chủ Grover Cleveland từ New York đã đánh bại James G. Blaine từ Maine thuộc Đảng Cộng hòa. Nó là cuộc bầu cử tràn ngập những lời vu khống cá nhân đáng xấu hổ, thứ đã làm lu mờ các vấn đề thực tại xảy ra trên đất nước, chẳng hạn như thay đổi công vụ. Cleveland là đảng viên Đảng Dân chủ đầu tiên được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ kể từ James Buchanan vào năm 1856, là người đầu tiên giữ chức vụ này kể từ khi Andrew Johnson rời Nhà Trắng vào năm 1869, và là người cuối cùng giữ chức vụ này cho đến khi Woodrow Wilson nhậm chức năm 1913. Vì lý do này, năm 1884 là một cuộc bầu cử quan trọng trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ, đánh dấu thời gian gián đoạn đầu tiên trong kỷ nguyên mà Tổng thống phần lớn đến từ Đảng Cộng hòa giữa Tái thiết và Đại khủng hoảng.
Cleveland đã giành được đề cử Tổng thống trong lần bỏ phiếu thứ 2 tại Đại hội toàn quốc đảng Dân chủ năm 1884. Tổng thống đương nhiệm Chester A. Arthur kế vị Tổng thống vào năm 1881 sau khi Tổng thống James A. Garfield bị ám sát, nhưng ông đã không thành công trong nỗ lực tìm kiếm đề cử Tổng thống trong cuộc bầu cử này. Blaine, người từng là Ngoại trưởng dưới thời Tổng thống Garfield, đã đánh bại Arthur và các ứng cử viên khác trong lần bỏ phiếu thứ 4 tại Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1884. Một nhóm những người theo chủ nghĩa cải cách của Đảng Cộng hòa được gọi là "Mugwumps" đã từ chối ủng hộ Blaine, coi ông ta là một kẻ tham nhũng. Chiến dịch tranh cử đã bị hủy hoại bởi những công kích cá nhân vô căn cứ. Blaine là người tai tiếng với việc tham nhũng công và điều này vô tình làm những cử tri Công giáo xa lánh vào phút cuối và quay sang ủng hộ các ứng cử viên khác.
Trong cuộc bầu cử, Cleveland đã giành được 48,9% tổng số phiếu phổ thông trên toàn quốc và 219 phiếu đại cử tri, giành được miền Nam và một số tiểu bang dao động quan trọng. Blaine đã giành được 48,3% số phiếu phổ thông và 182 phiếu đại cử tri. Cleveland đã thắng bang quê hương New York của mình chỉ với cách biệt 1.149 phiếu bầu; và nếu ông thua tại đây, ông sẽ thất cử. Hai ứng cử viên của các đảng nhỏ, John St. John từ Đảng Cấm rượu và Benjamin Butler từ Đảng Đồng bạc xanh và Đảng Chống độc quyền, mỗi người giành được ít hơn 2% tổng số phiếu phổ thông. Blaine là cựu Ngoại trưởng cuối cùng được đề cử bởi một đảng chính trị lớn cho đến khi Hillary Clinton được đề cử vào năm 2016, trong khi Cleveland trở thành Tổng thống duy nhất đến từ Đảng Dân chủ từ khi Nội chiến kết thúc đến khi Woodrow Wilson thắng cử trong năm 1912, một khoảng thời gian gần 50 năm. Blaine, tương tự, cũng trở thành ứng cử viên Đảng Cộng hòa duy nhất trong khoảng thời gian 60 năm từ 1856 đến 1916 không bao giờ thắng trong một cuộc bầu cử Tổng thống và là 1 trong 2 ứng cử viên duy nhất thất cử trong khoảng thời gian 80 năm từ 1856 đến 1936.
Đề cử.
Đề cử của Đảng Dân chủ.
Đại hội của Đảng Dân chủ nhóm họp tại Chicago từ ngày 8 đến 11 tháng 7 năm 1884, với Thống đốc New York Grover Cleveland là người dẫn đầu rõ ràng, ông nhận được sự ủng hộ từ các nhà cải cách miền Bắc và những người giàu có. Mặc dù nhóm Tammany Hall gay gắt phản đối Cleveland, nhưng nhóm này chỉ chiếm thiểu số trong phái đoàn của New York. Họ dự định ngăn Cleveland bằng cách thay đổi quy tắc bỏ phiếu, tức là thay vì cả phái đoàn chỉ có 1 phiếu duy nhất để bầu cho ứng cử viên thì mỗi người đều được bỏ phiếu; tuy nhiên, nó chưa bao giờ trở thành hiện thực. Daniel N. Lockwood từ phái đoàn New York là người đề cử Cleveland trước đại hội. Nhưng bài phát biểu khá mờ nhạt của ông đã bị lu mờ bởi bài phát biểu sau đó của Edward S. Bragg từ Wisconsin. "Họ yêu mến ông ấy, thưa các quý ông," Bragg nói về Cleveland, "và họ tôn trọng ông, không chỉ vì bản thân ông ấy, vì tính cách của ông ấy, vì sự chính trực, óc phán đoán và ý chí sắt đá của ông ấy, mà hơn hết, họ yêu ông ấy vì những kẻ thù mà ông ấy đã 'tạo ra'." Bài phát biểu giống như cú tát vào mặt nhóm Tammany, đến mức ông chủ của nó, John Kelly, lao lên bục, hét lên rằng Tammany chỉ coi bài phát biểu này như một lời tán dương mà thôi.
Trong lần bỏ phiếu đầu tiên, Cleveland dẫn đầu với 392 phiếu bầu, kém số phiếu tối thiểu để được đề cử hơn 150 phiếu. Theo sau ông là Thomas F. Bayard từ Delaware, 170 phiếu; Allen G. Thurman từ Ohio, 88 phiếu; Samuel J. Randall từ Pennsylvania, 78 phiếu và Joseph E. McDonald từ Indiana, 56 phiếu;... Randall sau đó rút lu và tuyên bố ủng hộ Cleveland. Động thái này, cùng với việc khối miền Nam cũng ủng hộ Cleveland, đủ để đưa ông vượt lên dẫn đầu trong lần bỏ phiếu thứ 2, với 683 phiếu bầu so với 81,5 cho Bayard và 45,5 cho Thomas A. Hendricks từ Indiana. Hendricks được nhất trí đề cử làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên sau khi John C. Black, William Rosecrans và George Washington Glick rút lui.
Đề cử của Đảng Cộng hòa.
Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1884 được tổ chức tại Chicago, Illinois, từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 6, với cựu Ngoại trưởng James G. Blaine từ Maine, Tổng thống Arthur và Thượng nghị sĩ George F. Edmunds từ Vermont là những người dẫn đầu. Mặc dù vẫn còn nổi tiếng, nhưng Arthur đã không nghiêm túc tham gia giành đề cử vì biết rằng các vấn đề sức khỏe ngày càng gia tăng của ông có nghĩa là ông có thể sẽ không sống sót qua nhiệm kỳ thứ 2 của mình (cuối cùng ông qua đời vào tháng 11 năm 1886, tức là nếu tái cử lần này, ông sẽ mất 1 năm 8 tháng sau khi nhậm chức lần 2). Blaine dẫn đầu trong lần bỏ phiếu đầu tiên, Arthur về thứ 2 và Edmunds về thứ 3. Thứ tự này không thay đổi trong các lần bỏ phiếu tiếp theo khi Blaine giành được thêm nhiều phiếu hơn và đã giành được đa số phiếu trong lần bỏ phiếu thứ 4. Sau khi đề cử Blaine, đại hội đã chọn Thượng nghị sĩ John A. Logan từ Illinois làm ứng cử viên Phó Tổng thống. Blaine đến này vẫn là ứng cử viên Tổng thống duy nhất từng đến từ Maine.
Vị tướng nổi tiếng thời Nội chiến, William Tecumseh Sherman, được coi là một ứng cử viên tiềm năng của Đảng Cộng hòa, nhưng đã rút lui theo vì được gọi là "lời thề của Sherman": "Nếu được chỉ định, tôi sẽ không ứng cử; nếu được bổ nhiệm, tôi sẽ không đảm nhận; nếu được bầu, tôi sẽ không phục vụ." Robert Todd Lincoln, Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ, và là con trai của cố Tổng thống Abraham Lincoln, cũng được các chính trị gia và giới truyền thông đương thời hết sức ủng hộ để ra tranh cử nhưng Lincoln cũng từ chối giống Sherman.
Đảng nhỏ.
Đề cử của Đảng Chống độc quyền.
Các ứng cử viên của Đảng Chống độc quyềnĐại hội toàn quốc Đảng Chống độc quyền được triệu tập tại Hershey Music Hall ở Chicago, Illinois vào ngày 14 tháng 5. Đảng được thành lập để phản đối các hoạt động kinh doanh của các công ty mới nổi trên toàn quốc. Có khoảng 200 đại biểu đến từ 16 bang, nhưng 61 người trong số họ đến từ Michigan và Illinois.
Alson Streeter là chủ tịch tạm quyền và John F. Henry là chủ tịch thường trực.
Benjamin Butler đã được đề cử làm Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên. Các đại biểu từ New York, Washington, DC và Maryland đã phản đối đại hội khi có vẻ như không được phép thảo luận về bất kỳ ứng cử viên khác. Allen G. Thurman và James B. Weaver được đưa ra làm những lựa chọn thay thế cho Butler, nhưng Weaver từ chối, không muốn thực hiện một chiến dịch toàn quốc khác cho một chức vụ chính trị, và Thurman cũng không mấy nhiệt tình. Butler, mặc dù không phản đối việc đề cử, nhưng hy vọng sẽ được Đảng Dân chủ hoặc Đảng Cộng hòa đề cử, hoặc ít nhất là giống như trước, soạn cương lĩnh dễ nhận được ủng hộ hơn Đảng Đồng bạc xanh. Cuối cùng, chỉ có Đảng Đồng bạc xanh tán thành ông ra tranh cử.
Đại hội đã chọn không đề cử một ứng cử viên cho chức Phó Tổng thống, hy vọng rằng các đại hội khác sẽ tán thành một cương lĩnh tương tự họ và đề cử một ứng cử viên Phó Tổng thống phù hợp.Ủy ban cuối cùng đã đề cử Absolom Madden West làm ứng cử viên Phó Tổng thống của đảng.
Đề cử của Đảng Đồng bạc xanh.
Ứng cử viên Đảng Đồng bạc xanh:Đại hội toàn quốc của Đảng Đồng bạc xanh được tổ chức tại Nhà hát Opera của Anh ở Indianapolis, Indiana. Các đại biểu từ 28 tiểu bang và Quận Columbia đã tham dự. Đại hội đã đề cử Benjamin F. Butler làm Tổng thống thay vì Chủ tịch Đảng Jesse Harper trong lần bỏ phiếu đầu tiên. Absolom M. West đã được nhất trí đề cử cho vị trí Phó Tổng thống, và sau đó cũng được Đảng Chống độc quyền tán thành.
Butler ban đầu hy vọng các "đảng thiểu số" ở mỗi bang, Dân chủ hoặc Cộng hòa, cùng những người ủng hộ ông thuộc các đảng khác nhau thành lập một liên minh với cái tên "Đảng Nhân dân". Nhưng nhiều thành viên 2 đảng lớn, trong khi có thể đồng ý với thông điệp và cương lĩnh của Butler, lại không sẵn lòng ủng hộ một đảng khác đảng mình. Ở một số nơi, đặc biệt là Iowa, các liên minh đã được đề cử; về cơ bản, các phiếu bầu của Butler và Cleveland sẽ được cộng lại với nhau để tạo thành tổng số phiếu bầu của cả liên minh, cho phép họ giành được bang ngay cả khi cả 2 tính riêng không đạt đa số, với phiếu đại cử tri được chia theo tỷ lệ phần trăm phiếu bầu mà mỗi bên giành được.
Nhưng ngay cả khi liên minh thắng tại một số bang có triển vọng (như Indiana, Nebraska, Wisconsin, Illinois), nó sẽ không thay đổi kết quả, không có tiểu bang nào mà Blaine thắng chuyển sang Cleveland thắng.
Đề cử của Đảng Cấm rượu Hoa Kỳ.
Đảng Cấm rượu Hoa Kỳ đã tổ chức đại hội toàn quốc tại tòa nhà YMCA ở Chicago, Illinois. Có 150 đại biểu, trong đó có nhiều đại biểu không tham gia bỏ phiếu. Đảng đã tìm cách lôi cuốn các phong trào cải cách chống Hội Tam Điểm, cấm rượu, chống chế độ đa thê thành lập một đảng mới. Jonathan Blanchard là một nhân vật quan trọng trong đảng. Ông ấy đã đi khắp các bang miền Bắc vào mùa xuân và đưa ra một bài phát biểu có tựa đề "Đảng Hoa Kỳ - Nguyên tắc và Tuyên bố của nó."
Trong đại hội, tên đảng đã được đổi từ Đảng Hoa Kỳ thành Đảng Cấm rượu Hoa Kỳ. Đảng này được gọi là Đảng Chống Hội Tam điểm vào năm 1880. Nhiều đại biểu tại đại hội ban đầu quan tâm đến việc đề cử John St. John, cựu thống đốc bang Kansas, nhưng người ta sợ rằng việc đề cử như vậy có thể khiến ông mất cơ hội được đề cử bởi Đảng Cấm rượu. Các nhà lãnh đạo Đảng đã gặp Samuel C. Pomeroy, một cựu thượng nghị sĩ cùng bang, người về nhì trong lần bỏ phiếu tại đại hội, và theo đề nghị của Pomeroy, họ sẽ rút lui nếu St. John giành được đề cử của Đảng Cấm rượu. Được đề cử cùng với Pomeroy là John A. Conant đến từ Connecticut.
John sau đó đã giành được đề cử của Đảng Cấm rượu, Pomeroy và Conant lập tức rút khỏi cuộc đua và ủng hộ ông. "Thời báo New York" suy đoán rằng sự ủng hộ này "mang lại cho ông ấy 40.000 phiếu bầu".
Đề cử của Đảng Cấm rượu.
Đại hội toàn quốc của Đảng Cấm rượu được tổ chức tại Lafayette Hall, Pittsburgh, Pennsylvania. Có 505 đại biểu từ 31 tiểu bang và vùng lãnh thổ dự đại hội. Liên danh tranh cử đã được nhất trí đề cử: John St. John cho vị trí Tổng thống và William Daniel cho vị trí Phó Tổng thống. Cương lĩnh Đảng Cấm chỉ đơn giản ủng hộ việc hình sự hoá đồ uống có cồn.
Đề cử của Đảng Quyền Bình đẳng.
Không hài lòng với sự phản đối của các đảng lớn đối với quyền bầu cử của phụ nữ, một nhóm nhỏ phụ nữ đã tuyên bố thành lập Đảng Quyền bình đẳng vào năm 1884.
Đảng Quyền Bình đẳng đã tổ chức đại hội toàn quốc tại San Francisco, California, vào ngày 20 tháng 9. Đại hội đã đề cử Belva Ann Lockwood, một luật sư ở Washington, DC, làm Tổng thống. Chủ tịch Marietta Stow, người phụ nữ đầu tiên chủ trì một đại hội toàn quốc, đã được đề cử làm Phó Tổng thống.
Lockwood đã đồng ý trở thành ứng cử viên Tổng thống của đảng mặc dù hầu hết phụ nữ ở Hoa Kỳ chưa có quyền bầu cử. Cô ấy nói, "Tôi không thể bỏ phiếu nhưng tôi có thể được bầu chọn." Cô ấy là người phụ nữ đầu tiên tổ chức một chiến dịch tranh cử lớn (Victoria Woodhull trước đó chỉ tiến hành một chiến dịch nhỏ vào năm 1872). Đảng Quyền bình đẳng không ngân quỹ, nhưng Lockwood đã thuyết trình để kiếm tiền cho chiến dịch vận động tranh cử. Bà đã nhận được khoảng 4.194 phiếu bầu trên toàn quốc.
Tổng tuyển cử.
Chiến dịch.
Tính cách và đạo đức cá nhân là điều tối quan trọng trong chiến dịch năm 1884. Blaine đã không được đề cử làm Tổng thống trong hai cuộc bầu cử trước đó vì cái được gọi là "những bức thư Mulligan": Vào năm 1876, một nhân viên kế toán ở Boston tên là James Mulligan đã tìm thấy một số bức thư ới nội dung cho thấy Blaine đã dùng ảnh hưởng của mình ở Quốc hội để giúp đỡ các doanh nghiệp một cách bất hợp pháp. Lá thư kết thúc bằng cụm từ "hãy đốt lá thư này", từ đó nảy sinh một khẩu hiệu phổ biến của Đảng Dân chủ - "Đốt, đốt, đốt lá thư này!" Chỉ một lần làm như vậy, ông ta sẽ nhận được 110.150 đô la (hơn 1,5 triệu đô la theo tỷ giá hối đoái năm 2010) từ Công ty Đường sắt Little Rock và Fort Smith đổi lại là sự đảm bảo về trợ cấp đất liên bang, cùng những thứ khác. Kết quả là các đảng viên Đảng Dân chủ và đảng viên Cộng hòa chống Blaine đã tấn công không ngừng nghỉ vào tính chính trực của ông. Mặt khác, Cleveland được biết đến với biệt danh "Grover Cương trực" vì tính chính trực của mình; trong khoảng thời gian 3 năm trước, ông đã lần lượt trở thành thị trưởng của Buffalo, New York, và sau đó là thống đốc của bang New York, thành công dẹp yên nạn hối lộ của Tammany Hall.
Nhà bình luận Jeff Jacoby bình luận rằng, "Không phải kể từ thời George Washington đến nay, Hoa Kỳ mới tìm được một ứng cử viên Tổng thống nổi tiếng về sự ngay thẳng của mình." Vào tháng 7, Đảng Cộng hòa đã tìm ra một điểm yếu trong quá khứ của Cleveland. Được hỗ trợ bởi các bài giảng của một mục sư tên là George H. Ball, họ buộc tội rằng Cleveland đã có một đứa con ngoài giá thú khi ông còn là luật sư ở Buffalo. Đối mặt với vụ bê bối, Cleveland ngay lập tức nói: "Trên hết, hãy nói sự thật." Cleveland thừa nhận đã trả tiền chu cấp vào năm 1874 cho Maria Crofts Halpin, người phụ nữ tuyên bố rằng ông là cha của đứa con của cô ấy, tên là Oscar Folsom Cleveland (đặt tên theo một người bạn và đối tác luật của Cleveland), nhưng ông khẳng định rằng quan hệ cha con với đứa trẻ này chưa chắc là sự thật. Không lâu trước ngày bầu cử, các phương tiện truyền thông của Đảng Cộng hòa đã công bố một bản khai có tuyên thệ của Halpin, trong đó cô ấy nói rằng cho đến tận khi gặp Cleveland, "cuộc sống của cô ấy trong sáng và không tì vết" và nói thêm rằng cô "không có và chưa bao giờ nghi ngờ về quan hệ cha con giữa 2 người, cũng như không tin Grover Cleveland cùng những người bạn của ông đã đặt tên Oscar Folsom cho cậu bé để chối bỏ nó, vì đơn giản việc này thật bỉ ổi và sai trái." Trong một bản khai khác, Halpin cũng ngụ ý rằng Cleveland đã cưỡng hiếp cô, làm cô có thai. Các họa sĩ vẽ tranh biếm họa của Đảng Cộng hòa trên khắp cả nước đã có những ngày tháng "vui vẻ" vì với những bản khai của Halpin, họ có thể phát hành hàng tá tranh biếm họa nhắm vào Cleveland về vấn đề này.
Chiến dịch tranh cử của Cleveland quyết định rằng trực tiếp và thẳng thắn là cách xử trí tốt nhất trước vụ bê bối này: họ thừa nhận rằng Cleveland đã có một "mối quan hệ bất chính" với người mẹ và rằng một đứa trẻ đã được sinh ra và mang họ Cleveland. Họ cũng lưu ý rằng không có bằng chứng nào cho thấy Cleveland là cha và tuyên bố rằng, việc ông chịu trách nhiệm cho vấn đề này và tìm một ngôi nhà cho đứa trẻ, chỉ là cách Cleveland làm đúng nghĩa vụ của mình. Cuối cùng, họ chứng minh được rằng người mẹ không bị buộc phải đi biệt tích; chỉ là nơi ở của cô ấy không được biết đến. Những người ủng hộ Blaine đã lên án Cleveland bằng những lời lẽ nặng nề nhất, khi dùng câu giễu cợt "Ma, Ma, Where's my Pa?" ["Mẹ, Mẹ, Cha con đâu?"] (Sau chiến thắng của Cleveland, những người ủng hộ Cleveland sẽ đáp lại lời chế nhạo bằng câu: "Đã đến Nhà Trắng, Ha, Ha, Ha.") Tuy nhiên, việc kiểm soát vấn đề của chiến dịch của Cleveland đã đạt hiệu quả và ông vẫn dẫn đầu cho đến tận Ngày Bầu cử. Hơn nữa, mối đe dọa lớn nhất đối với Đảng Cộng hòa đến từ những nhà cải cách được gọi là "Mugwumps", những người tức giận trước quá khứ tham nhũng của Blaine hơn là những vấn đề riêng tư của Cleveland.
Trong tuần cuối cùng của cuộc bầu cử, chiến dịch Blaine gặp thảm họa. Tại một cuộc họp của Đảng Cộng hòa có Blaine tham dự, một nhóm các nhà thuyết giáo từ New York đã chọc tức Mugwumps. Người phát ngôn của nhóm này, Mục sư, Tiến sĩ Samuel Burchard, cho biết, "Chúng tôi là những người theo Đảng Cộng hòa, và không rời bỏ đảng của mình và tham gia đảng có tiền thân là rượu rum, chủ nghĩa La Mã và Nội chiến." Blaine không nhận ra lời nói tục tĩu chống Công giáo của Burchard, cũng như các phóng viên đã có mặt tự lúc nào, trong đó có cả những người do Đảng Dân chủ cài cắm, đảm bảo rằng vụ việc này sẽ được công bố rộng rãi. Tuyên bố này đã thúc đẩy tỷ lệ bỏ phiếu của người Ireland và Công giáo ở Thành phố New York nhằm chống lại Blaine, khiến ông phải trả giá bằng việc thua bang New York với cách biệt sít sao.
Ngoài bài phát biểu của Burchard, người ta cũng tin rằng chiến dịch của John St. John là nguyên nhân giúp Cleveland giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ở New York. Vì những người theo chủ nghĩa Cấm rượu có xu hướng liên minh nhiều hơn với những người Cộng hòa, nên Đảng Cộng hòa đã cố gắng thuyết phục St. John rút lui. Khi họ không thuyết phục được, họ tìm cách vu khống ông ta. Vì điều này, ông ấy đã nỗ lực gấp nhiều lần để thu hút cử tri ở ngoại ô New York, nơi Blaine dễ để thua vì lập trường cấm rượu của mình, cuối cùng đã lấy đi phiếu bầu của Đảng Cộng hòa.
Kết quả.
Mặc dù kết quả nhìn chung vẫn giống như kết quả từ năm 1880 nhưng Cleveland đã thắng ở ba bang (New York, Indiana và Connecticut) mà James A. Garfield đã thắng, trong khi Blaine thắng ở hai bang ( California và Nevada) mà Winfield Hancock đã thắng. Nhưng hầu hết các bang đó đều có số phiếu đại cử tri tương đối nhỏ, và chiến thắng của Cleveland ở New York là chiến thắng quyết định. Cleveland đã thắng với cách biệt lớn hơn một chút so với Garfield (0,57% so với 0,11%) trong phiếu phổ thông, nhưng cách biệt nhỏ hơn một chút trong Đại cử tri đoàn (29 phiếu so với 59). Cleveland trở thành đảng viên Đảng Dân chủ đầu tiên giành chiến thắng mà không thắng Pennsylvania, California, Nevada và Illinois. Pennsylvania bỏ phiếu cho ứng cử viên thua cuộc lần đầu tiên kể từ năm 1824, lần đầu bỏ phiếu cho người thua phiếu phổ thông kể từ năm 1800.
Kết quả đánh dấu một bước đột phá của cho Đảng Cấm rượu, đảng chỉ là một đảng nhỏ trong ba cuộc bầu cử trước đó. Mặc dù họ chưa bao giờ đến gần với ghế Tổng thống và chỉ đạt được thành công hạn chế trong các cuộc bầu cử quốc hội và tiểu bang, nhưng họ sẽ thường xuyên giành được ít nhất một điểm phần trăm số phiếu phổ thông (và đôi khi đứng thứ ba) trong các cuộc bầu cử Tổng thống trong 3 thập kỷ tiếp theo cho đến khi Tu chính án 18, chính thức cấm đồ uống có cồn, được thông qua vào năm 1919. Ngược lại, Butler chỉ giành được ít hơn một nửa số phiếu phổ thông mà James B. Weaver giành được vào năm 1880, đẩy nhanh sự suy tàn của Đảng Đồng bạc xanh. Đây là cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng mà đảng này tham gia; nó sụp đổ sau khi cuộc bầu cử năm 1888.
Tại Quận Burke, Georgia, 897 phiếu bầu đã được kiểm bầu cho "Đảng Cộng hòa Whig" cho chức Tổng thống (chúng không được tính cho Blaine). Đảng Cộng hòa đã thắng ở 20 trong số 33 thành phố có dân số trên 50.000 người bên ngoài Nam Hoa Kỳ.
Kết quả theo tiểu bang.
Nguồn: Dữ liệu từ Walter Dean Burnham, "Presidential ballots, 1836–1892" (Johns Hopkins University Press, 1955) pp 247–57.
Tiểu bang sít sao.
Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (55 phiếu đại cử tri):
Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (117 phiếu đại cử tri):
Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 5% và 10% (104 phiếu đại cử tri): |
19,822,460 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822460 | Sách phủ nguyên quy | Sách phủ nguyên quy () là bộ "loại thư" (bách khoa toàn thư) lớn nhất của Trung Quốc được biên soạn dưới thời Tống (960–1279). Đây là cuốn cuối cùng trong "Tống tứ đại thư", ba cuốn trước được xuất bản vào thế kỷ 10.
Lịch sử.
Cuốn bách khoa toàn thư này do Tống Chân Tông hạ chiếu cho Vương Khâm Nhược và Dương Ức cùng cộng sự biên soạn vào tháng 10 năm 1005 với tiêu đề "Lịch đại quân thần sự tích" nhưng về sau được Hoàng đế đổi tên thành "Sách phủ nguyên quy", toàn sách mất đến tám năm mới hoàn thành vào ngày 20 tháng 9 năm 1013. Bản khắc in được chia thành 1.000 quyển, 31 danh mục và 1014 phụ lục, tất cả đều "liên quan đến việc quản lý triều chính, bộ máy quan lại và hoàng tộc các triều đại từ xưa đến nay". Sách không bao gồm các chương nói về thế giới tự nhiên. Nhiều viên chức đã tham gia vào công tác soạn ra bộ sách này, bao gồm cả Vương Khâm Nhược và Dương Ức, với lời thỉnh cầu hoàng đế thuê thêm người biên soạn.
Tên gọi.
Tiêu đề tiếng Anh cho bách khoa toàn thư này là: |
19,822,461 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822461 | Văn uyển anh hoa | Văn uyển anh hoa () là tuyển tập thơ từ, ca dao, khúc ca và tác phẩm từ thời nhà Lương đến thời Ngũ đại thập quốc.
"Văn uyển anh hoa" là một tác phẩm văn học nổi tiếng thời Tống. Cuốn sách này ban đầu do một nhóm quan lại bao gồm Tống Bạch (宋白), Hỗ Mông (扈蒙), Từ Huyễn (徐鉉) biên soạn theo lệnh của triều đình từ năm 982 đến 986 dưới thời Bắc Tống. Học giả thời Nam Tống Chu Tất Đại đã khắc in cuốn sách bản hoàn chỉnh vào năm 1204, trong khi có tới bốn lần sửa đổi lớn và vô số sửa đổi nhỏ diễn ra trong suốt 200 năm qua. "Văn uyển anh hoa" được chia thành 1.000 quyển và 38 loại theo phần với 19.102 tác phẩm do khoảng 2.200 tác giả chấp bút; phần lớn việc biên soạn các tác phẩm quan trọng đến từ giới học giả thời Đường. Sách này được coi là một trong "Tống tứ đại thư".
Mặc dù vậy, "Văn uyển anh hoa" có một lượng lớn nội dung đáng giá về lịch sử và văn học Trung Quốc; tác phẩm này hầu như đã bị các học giả ở cả phương Đông và phương Tây bỏ quên kể từ khi cuốn sách được biên soạn và in ấn. Nó có mối liên hệ sâu rộng với các tuyển tập văn học Trung Quốc thời Đường Tống khác. |
19,822,479 | 588246 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822479 | Dendrochirus brachypterus | Dendrochirus brachypterus là một loài cá biển thuộc chi "Dendrochirus" trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1829.
Từ nguyên.
Từ định danh "brachypterus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: "brakhús" (βραχύς; “ngắn”) và "pterón" (πτερόν; “vây, cánh”), hàm ý đề cập đến vây ngực tương đối ngắn so với "Dendrochirus zebra", một loài được Georges Cuvier mô tả trước đó.
Phân bố và môi trường sống.
"D. brachypterus" có phân bố rộng rãi ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ bờ biển Ấn Độ và Sri Lanka về phía đông đến quần đảo Samoa và Tonga, ngược lên phía bắc đến bờ nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến đảo Lord Howe, phía bắc New Zealand và quần đảo Kermadec. Những ghi nhận của "D. brachypterus" ở quần đảo Hawaii nhiều khả năng là loài "Dendrochirus barberi". Còn ghi nhận ở Tây Ấn Độ Dương của loài này đã được công nhận là một loài mới, tức "Dendrochirus hemprichi".
"D. brachypterus" sống phổ biến trên đới mặt bằng rạn, đầm phá nông và nền cát phủ cỏ biển, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 80 m.
Mô tả.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "D. brachypterus" là 17 cm. Cá có màu nâu đỏ lốm đốm với các vạch màu sẫm trên thân. Vây lưng, vây đuôi và vây hậu môn có các đốm đen nhỏ, vây ngực có các dải sọc. Đầu có nhiều điểm gai, nhưng ít hơn "D. hemprichi".
Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 5–7; Số tia vây ngực: 17–20 (ít khi là 20).
Sinh thái.
"D. brachypterus" là loài sống về đêm, ăn chủ yếu động vật giáp xác nhỏ. Cá trưởng thành thường thấy gần hải miên, còn cá con đôi khi hợp thành nhóm nhỏ (khoảng 10 cá thể) trên những mỏm san hô.
Giá trị.
"D. brachypterus" thường được sử dụng làm thực phẩm trong nghề đánh bắt thủ công mặc dù chúng là cá độc, cũng thường thấy trong các hoạt động thương mại cá cảnh. |
19,822,480 | 647445 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822480 | Ngụy biện dèm pha gây chán ghét | Ngụy biện dèm pha gây chán ghét (tiếng Anh: appeal to spite) là loại ngụy biện trong đó người ta cố gắng giành được sự ủng hộ cho một lập luận bằng cách khai thác cảm giác cay đắng, chán ghét hoặc khinh bỉ với lập luận đối lập. Nó nỗ lực tác động đến cảm xúc người nghe bằng cách liên kết hình ảnh thù địch với lập luận đối lập với lập luận của người nói.
Người ta thường nhầm loại ngụy biện này với ngụy biện tấn công cá nhân. Ngụy biện tấn công cá nhân cũng khơi gợi cảm xúc tiêu cực, nhưng khác với loại ngụy biện này ở chỗ nó "chỉ trích trực tiếp" đối thủ. Ở loại ngụy biện này, điều đó là không nhất thiết. |
19,822,491 | 914225 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822491 | Nicotinamin mononucleotit |
Nicotinamin mononucleotit (“NMN” hoặc“β-NMN”) là một nucleotit, khởi phát từ ri-bô-zơ, nicotinamit, nicotinamit riboxit và niacin. Trong cơ thể con người, một số enzym sử dụng NMN để sản xuất nicotinamit adenin dinucleotit (NADH). Trên loài chuột, người ta cho rằng NMN được hấp thụ thông qua ruột non trong vòng 10 phút kể từ khi nuốt qua đường miệng và chuyển hoá thành nicotinamit adenin dinucleotit (NAD+) thông qua kênh vận chuyển Slc12a8. Mặc dù vậy, quan sát này vẫn đang được truy vấn, và cơ chế thực sự vẫn còn chưa hoàn toàn được giải đáp.
Bởi vì NADH là một đồng nhân tố Cofactor cho các quá trình xảy ra bên trong ty thể và một số protein, NMN đã và đang được nghiên cứu trên mô hình bệnh tật động vật như một loại thuốc thần kinh và thoái hoá tiềm năng. Nó giảm thiểu thoái hoá ty thể với sự góp mặt của nồng độ NAD+ cao. Các công ty dược phẩm do đó tăng cường quảng bá, tự công nhận các lợi ích của nó. Mặc dù vậy, chưa có nghiên cứu trên con người nào từng chỉ ra các tác dụng của nó một cách hợp lý. Cuộc thử nghiệm trên người tại Đại học Kaio đã quan sát các tác động của liều 500 mg. Một cuộc thử nghiệm y khoa năm 2021 cũng tìm hiểu tác động của NMN đối với sự nhạy cảm insulin của cơ trên các nữ bệnh nhân tiền tiểu đường, và cũng có một nghiên cứu trong tình huống vận động điền kinh. Một cuộc nghiên cứu y khoa năm 2023 cho thấy NMN cải thiện chức năng đi bộ trong bài tập 6 phút cùng một bài đánh giá sức khoẻ tổng lược chủ quan.
NMN dễ bị phân huỷ ngoại tế bào bởi enzym CD38, điều này bị hạn chế bởi hợp chất như CD38-IN-78c.
Các nguồn chất.
NMN được phát hiện thấy trong hoa quả và rau củ như edamame, bông cải xanh, bắp cải, dưa chuột và quả bơ ở nồng độ 1mg trên mỗi 100g, một nồng độ không đáng kể, gần như không ảnh hưởng bằng liều lượng thuốc nghiên cứu trong y dược.
Sản xuất.
Việc sản xuất NMN bị ngưng trệ tại Hoa Kỳ do một cuộc điều tra của FDA cuối năm 2022 dưới danh nghĩa nghiên cứu dược phẩm.
Các hình thái khác nhau trong cơ quan nội tạng.
Việc tổng hợp và tiêu thụ các enzym NMN cũng thể hiện tính đặc chủng của mô: NMN phân bố tại các mô và cơ quan trong cơ thể và xuất hiện trong nhiều tế bào khác nhau kể từ khi phát triển bào thai embryonic. |
19,822,492 | 70592125 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822492 | Gautam Adani | Gautam Shantilal Adani (sinh ngày 24 tháng 6 năm 1962) là một nhà công nghiệp tỷ phú người Ấn Độ, là người sáng lập và chủ tịch của Adani Group, một tập đoàn đa quốc gia tham gia vào hoạt động và phát triển cảng ở Ấn Độ.
Adani được mô tả là thân cận với Thủ tướng Narendra Modi và chính phủ cầm quyền Đảng Bharatiya Janata của ông. Điều này đã dẫn đến các cáo buộc về chủ nghĩa thân hữu , vì các công ty của ông đã giành được nhiều hợp đồng năng lượng và cơ sở hạ tầng ở Ấn Độ và nước ngoài sau khi Modi trở thành Thủ tướng Ấn Độ. Vào tháng 1 năm 2023 , sau các cáo buộc thao túng cổ phiếu và gian lận của công ty hoạt động bán khống Mỹ Nghiên cứu Hindenburg, Tài sản của Adani và gia đình anh ấy đã giảm mạnh hơn 50%. Ông đã mất hàng chục tỷ đô la chỉ trong vài ngày, rồi xuống còn ước tính 50,2 tỷ đô la Mỹ, tính đến tháng 3 năm 2023, đồng thời tụt xuống vị trí thứ 24 trên "Forbes" Danh sách tỷ phú theo thời gian thực.Tạp chí Time đã đưa ông vào 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới vào năm 2022.
Sự nghiệp.
Khi còn là một thiếu niên, Adani chuyển đến Mumbai vào năm 1978 để làm công việc phân loại kim cương cho Mahendra Brothers.
Năm 1981, anh trai của ông là Mahasukhbhai Adani mua một cơ sở sản xuất nhựa ở Ahmedabad và mời ông quản lý hoạt động. Liên doanh này hóa ra lại là cửa ngõ để Adani tiến tới giao dịch toàn cầu thông qua nhập khẩu polyvinyl clorua (PVC).
Vào tháng 2 năm 2022, ông trở thành người giàu nhất châu Á, vượt qua Mukesh Ambani. Vào tháng 8 năm 2022, ông được Fortune bầu chọn là người giàu thứ 3 trên thế giới.
Tập đoàn Adani.
Năm 1988, Adani thành lập Adani Exports, hiện được gọi là Adani Enterprises, công ty cổ phần của Tập đoàn Adani. Ban đầu, công ty kinh doanh các mặt hàng nông nghiệp và năng lượng.
Năm 1991, các chính sách tự do hóa kinh tế trở nên thuận lợi cho công ty của ông và ông bắt đầu mở rộng kinh doanh sang lĩnh vực kinh doanh kim loại, dệt may và các sản phẩm nông nghiệp.
Năm 1995, ông lập cầu cảng đầu tiên. Ban đầu được điều hành bởi Cảng Mundra & Đặc khu kinh tế, các hoạt động được chuyển giao cho Cảng Adani & SEZ (APSEZ). Cảng Mundra là cảng khu vực tư nhân lớn nhất ở Ấn Độ, với khả năng xử lý gần 210 triệu tấn hàng hóa mỗi năm.
Năm 1996, nhánh kinh doanh năng lượng của Tập đoàn Adani, Adani Power, được thành lập bởi Adani. Adani Power nắm giữ nhà máy nhiệt điện với công suất 4620MW, nhà sản xuất nhiệt điện tư nhân lớn nhất của đất nước.
Năm 2006, Adani tham gia kinh doanh phát điện. Từ năm 2009 đến 2012, ông mua lại cảng Abbot Point ở Úc và mỏ than Carmichael ở Queensland.
Vào tháng 5 năm 2020, Adani đã thắng thầu năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới của Solar Energy Corporation of India (SECI) trị giá 6 tỷ USD. Dự án nhà máy điện quang điện 8000MW sẽ được Adani Green đảm nhận; Adani Solar sẽ thiết lập thêm 2000MW công suất sản xuất mô-đun và pin mặt trời.
Vào tháng 11 năm 2021, khi phát biểu tại Diễn đàn kinh tế Bloomberg Ấn Độ, Adani cho biết tập đoàn này đang đầu tư 70 tỷ đô la Mỹ vào một doanh nghiệp năng lượng xanh mới. Vào tháng 7 năm 2022, ông đã cung cấp thông tin chi tiết mới về cách khoản đầu tư này sẽ được sử dụng để xây dựng ba nhà máy khổng lồ – năng lượng mặt trời, máy điện phân (để tạo ra hydro xanh), nhà máy tua-bin.
Cáo buộc gian lận.
Vào tháng 1 năm 2023, Adani và các công ty của ông bị buộc tội thao túng cổ phiếu bởi công ty đầu tư có trụ sở tại New York Nghiên cứu Hindenburg. Theo sau đó, cổ phiếu của Tập đoàn Adani giảm mạnh 45 tỷ USD. Các khoản lỗ dẫn đến việc Adani tụt xuống vị trí giàu thứ 22 trên bảng xếp hạng tỷ phú của Forbes. Báo cáo cáo buộc tập đoàn có khoản nợ lớn, khiến cổ phiếu của bảy công ty Adani niêm yết giảm 3-7%. Báo cáo được phát hành trước đợt chào bán công khai tiếp theo của Adani Enterprises, mở cửa vào ngày 27 tháng 1 năm 2023. Giám đốc tài chính của Tập đoàn Adani (Jugeshinder 'Robbie' Singh) đã tuyên bố rằng thời điểm công bố báo cáo là một "ý định trắng trợn, bất chính" nhằm làm hỏng sản phẩm. Đợt chào bán công khai của Adani Enterprises đã bị hủy vào ngày 1 tháng 2 năm 2023. |
19,822,493 | 835822 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822493 | Bùi Vĩ Hào | Bùi Vĩ Hào (sinh ngày 24 tháng 2 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm hoặc tiền đạo cánh cho câu lạc bộ Becamex Bình Dương và đội tuyển U-23 quốc gia Việt Nam.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Sinh ra ở An Giang, Vĩ Hào đã dành sự nghiệp bóng đá trẻ của mình để thi đấu cho Câu lạc bộ bóng đá An Giang. Năm 2021, anh được PVF mượn để thi đấu tại Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia 2021, nhưng anh đã không được ra sân sau khi giải đấu bị hủy bỏ do sự bùng phát của dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam.
Năm 2022, Vĩ Hào gia nhập câu lạc bộ Becamex Bình Dương và thi đấu tại V.League 1. Anh ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày 21 tháng 7 năm 2022, bàn thắng duy nhất cho Becamex Bình Dương trong trận thua 1–2 trước Hoàng Anh Gia Lai tại V.League 1.
Sự nghiệp quốc tế.
Vĩ Hào được điền tên vào đội hình 23 cầu thủ cho Cúp bóng đá U-20 châu Á 2023 bởi Hoàng Anh Tuấn. Vĩ Hào ra sân trong cả ba trận vòng bảng cho U-20 Việt Nam nhưng lại không ghi được bàn thắng nào. U-20 Việt Nam cuối cùng đã không thể lọt vào vòng đấu loại trực tiếp của giải đấu. |
19,822,495 | 70583048 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822495 | Hi! PARIS | Hi! PARIS là một tổ chức có trụ sở tại Paris nhằm thúc đẩy giáo dục, nghiên cứu và đổi mới trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu. Công việc của Hi! PARIS bao gồm nghiên cứu về an toàn AI kỹ thuật và đạo đức AI, vận động và hỗ trợ để phát triển lĩnh vực nghiên cứu an toàn AI.
Nó đã được tạo ra vào năm 2020 bởi HEC Paris và Institut polytechnique de Paris. Vào tháng 7 năm 2021, Inria đã trở thành đối tác.
Nghiên cứu.
Trung tâm chủ yếu tập trung vào hai chủ đề: AI & Dữ liệu cho doanh nghiệp và AI & Dữ liệu cho xã hội. Các công ty như Schneider Electric hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu.
Các hoạt động.
Ngoài các hoạt động nghiên cứu, trung tâm còn tổ chức một trường học hè và một cuộc thi hackathon. |
19,822,496 | 536098 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822496 | Nhân vật chính thứ hai | Nhân vật chính thứ hai (tiếng Anh: deuteragonist; tiếng Hy Lạp cổ: δευτεραγωνιστής) hay nhân vật á chính, là nhân vật quan trọng thứ hai của một câu chuyện, sau nhân vật chính và trước nhân vật chính thứ ba. Nhân vật chính thứ hai thường đóng vai trò là người bạn thường xuyên đồng hành cùng nhân vật chính, hoặc là một người tích cực hỗ trợ nhân vật chính, hoặc là đối thủ của nhân vật chính. Nhân vật chính thứ hai có thể chuyển đổi giữa việc hỗ trợ hoặc đối đầu với nhân vật chính, tùy thuộc vào mối quan hệ của họ và diễn biến của câu chuyện.
Chính kịch
Bởi vì kịch Hy Lạp cổ đại chỉ có ba diễn viên (nhân vật thứ nhất, nhân vật thứ hai và nhân vật thứ ba) cùng với dàn đồng ca, nên mỗi diễn viên thường đóng nhiều phần. |
19,822,498 | 536098 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822498 | Nhân vật chính thứ ba | Nhân vật chính thứ ba (tiếng Anh: tritagonist; tiếng Hy Lạp cổ: τριταγωνιστής) hay nhân vật quý chính, là nhân vật quan trọng thứ ba trong một câu chuyện, sau nhân vật chính và nhân vật chính thứ hai. Trong kịch Hy Lạp cổ, nhân vật chính thứ ba là thành viên thứ ba của đoàn diễn xuất.
Với tư cách là một nhân vật quan trọng, nhân vật chính thứ ba thường đóng vai trò là kẻ chủ mưu hoặc là nguyên nhân gây ra những đau khổ cho nhân vật chính. |
19,822,502 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822502 | Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina | Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina (; ) là một trong hai tỉnh tự trị của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia, thuộc Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư trước đây. Tỉnh này là tiền thân trực tiếp của tỉnh tự trị Vojvodina của Serbia ngày nay.
Tỉnh được chính thức thành lập vào năm 1945 sau kết quả của Chiến tranh thế giới thứ hai tại Nam Tư, với tên gọi Tỉnh tự trị Vojvodina (; ). Năm 1968, Vojvodina được trao quyền tự chủ chính trị ở mức độ cao hơn, và từ "Xã hội chủ nghĩa" được thêm vào tên chính thức của họ. Năm 1990, sau cuộc cải cách hiến pháp chịu ảnh hưởng của thứ được gọi là cách mạng chống quan liêu, quyền tự trị của tỉnh bị giảm xuống mức trước năm 1968, và thuật ngữ "Xã hội chủ nghĩa" bị loại bỏ khỏi tên gọi. Tỉnh bao gồm các khu vực Srem, Banat và Bačka, với thủ phủ là Novi Sad.
Trong suốt sự tồn tại của tỉnh, người Serb tại Vojvodina tạo thành nhóm dân tộc lớn nhất trong tỉnh, song song với điều này là sự khẳng định mạnh mẽ các yếu tố đa sắc tộc và đa văn hóa là trung tâm của bản sắc tỉnh. Bên cạnh tiêu chuẩn Serbia của tiếng Serbia-Croatia chính thức khi đó, Vojvodina xã hội chủ nghĩa còn chính thức sử dụng các ngôn ngữ khác bao gồm tiếng Hungary, tiếng Rusyn Pannonia, tiếng Slovak và tiếng Romania. Sau khi phe đối lập không giành được bất kỳ ghế nào trong cuộc bầu cử năm 1945, tỉnh được cai trị bởi Liên đoàn Những người cộng sản Vojvodina, một bộ phận của cả đảng cầm quyền Serbia và Nam Tư.
Lịch sử.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai tại Nam Tư (1941–1945), lãnh thổ này bị phe Trục chiếm đóng. Vào mùa thu năm 1944, Quân đội Nam Tư và Hồng quân trục xuất quân phe Trục khỏi hầu hết khu vực, các vùng đất này được đặt dưới chính quyền quân đội. Vào thời điểm đó, tình trạng chính trị của lãnh thổ vẫn chưa được xác định. Biên giới dự kiến của Vojvodina trong tương lai bao gồm các vùng Banat, Bačka, Baranja và hầu hết vùng Syrmia, bao gồm Zemun. Biên giới tạm thời theo pháp lý giữa Vojvodina và Croatia ở Syrmia là đường Vukovar-Vinkovci-Županja. Trên thực tế, các phần phía tây của Syrmia vẫn nằm dưới sự kiểm soát của quân đội phe Trục cho đến tháng 4 năm 1945. Từ ngày 17 tháng 10 năm 1944 đến ngày 27 tháng 1 năm 1945, phần lớn khu vực (Banat, Bačka, Baranja) nằm dưới quyền quản lý quân sự trực tiếp, và đến mùa xuân năm 1945, chính quyền khu vực lâm thời được thành lập.
1945–1968.
Tỉnh tự trị Vojvodina () được thành lập vào năm 1945, với tư cách là một tỉnh tự trị trong Cộng hòa Nhân dân Serbia, một đơn vị liên bang của Cộng hòa Nhân dân Liên bang Nam Tư.
Quá trình được bắt đầu vào ngày 30–31 tháng 7 năm 1945, khi hội đồng tỉnh lâm thời của Vojvodina quyết định rằng tỉnh nên gia nhập Serbia. Quyết định này được xác nhận trong phiên họp thứ ba của AVNOJ vào ngày 10 tháng 8 năm 1945, và luật quy định tình trạng tự trị của Vojvodina trong Serbia được thông qua vào ngày 1 tháng 9 năm 1945. Biên giới cuối cùng của Vojvodina với Croatia và Trung Serbia được định nghĩa vào năm 1945: Baranja và tây Syrmia được giao cho Croatia, trong khi các phần nhỏ của Banat và Syrmia gần Beograd được giao cho Trung Serbia. Một phần nhỏ phía bắc Mačva gần Sremska Mitrovica được giao cho Vojvodina. Thủ phủ của tỉnh là Novi Sad, cũng là thủ phủ của tỉnh Danube Banovina cũ tồn tại từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai.
Vị thế của Vojvodina trong Serbia được xác định trong Hiến pháp Nam Tư (1946) và Hiến pháp Serbia (1947). Quy chế đầu tiên của tỉnh tự trị Vojvodina được thông qua vào năm 1948 và quy chế thứ hai vào năm 1953. Sau khi cải cách hiến pháp năm 1963, quy chế thứ ba được thông qua trong cùng năm.
1968–1990.
Cho đến năm 1968, Vojvodina được hưởng một mức độ tự trị hạn chế trong Serbia. Sau cải cách hiến pháp được ban hành vào năm 1968, tỉnh được trao quyền tự trị cao hơn, và tên của tỉnh được đổi thành Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina (). Theo Luật Hiến pháp ngày 21 tháng 2 năm 1969, tỉnh này đạt được quyền tự trị lập pháp, đồng thời bốn ngôn ngữ thiểu số cũng được công nhận (ngoài tiếng Serbia-Croatia) là ngôn ngữ chính thức (Điều 67) trong tỉnh (Magyar, Slovak, Romania, Rusyn).
Theo Hiến pháp Nam Tư 1974, tỉnh giành được quyền tự trị cao hơn, xác định Vojvodina (vẫn còn nằm trong Serbia) là một trong những chủ thể của liên bang Nam Tư, đồng thời trao cho tỉnh này quyền biểu quyết tương đương với chính Serbia trong ban chủ tịch tập thể của liên bang. Hiến pháp của tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina () được thông qua vào năm 1974, trở thành đạo luật pháp lý cao nhất của tỉnh, thay thế Luật Hiến pháp năm 1969 trước đó.
Sau cải cách hiến pháp tại Nam Tư (1988), quá trình dân chủ hóa được bắt đầu. Năm 1989, các sửa đổi Hiến pháp Serbia được thông qua, hạn chế quyền tự trị của Vojvodina. Dưới sự cai trị của tổng thống Serbia Slobodan Milošević, Hiến pháp mới của Serbia được thông qua vào ngày 28 tháng 9 năm 1990, loại bỏ từ "xã hội chủ nghĩa" khỏi tên chính thức và giảm thêm quyền lợi của các tỉnh tự trị. Sau đó, Vojvodina không còn là chủ thể của liên bang Nam Tư nữa mà chỉ còn là tỉnh tự trị của Serbia với mức độ tự trị hạn chế. Tên của tỉnh cũng được hoàn nguyên thành tỉnh tự trị Vojvodina.
Trong toàn bộ thời kỳ từ 1945 đến 1990, đảng chính trị được cấp phép duy nhất trong tỉnh là Liên đoàn Những người cộng sản Vojvodina, là một phần của Liên đoàn Những người cộng sản Serbia và một phần của Liên đoàn Những người cộng sản Nam Tư.
Thể chế.
Các thể chế của tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina bao gồm:
Chủ tịch.
Các chủ tịch của tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina:
Nhân khẩu.
Theo điều tra nhân khẩu năm 1981, dân số của tỉnh bao gồm: |
19,822,504 | 835822 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822504 | Anderson Talisca | <ns>0</ns>
<revision>
<timestamp>2023-08-20T13:22:08Z</timestamp>
<contributor>
<username>LPM12345*</username>
</contributor>
<comment>Đổi hướng đến Talisca</comment>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format> |
19,822,513 | 845147 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822513 | Giai đoạn vòng loại và vòng play-off UEFA Europa League 2023-24 | Giai đoạn vòng loại và vòng play-off UEFA Europa League 2023–24 bắt đầu vào ngày 8 tháng 8 và kết thúc vào ngày 31 tháng 8 năm 2023.
Có tổng cộng 27 đội thi đấu ở hệ thống vòng loại bao gồm giai đoạn vòng loại và vòng play-off. 10 đội thắng ở vòng play-off tiến vào vòng bảng, để cùng với 12 đội tham dự vào vòng bảng, 6 đội thua của của vòng play-off Champions League (4 đội từ Nhóm các đội vô địch và 2 đội từ Nhóm các đội không vô địch) và 4 đội thua thuộc Nhóm các đội không vô địch của vòng loại thứ ba Champions League.
Thời gian là CEST (), như được liệt kê bởi UEFA (giờ địa phương, nếu khác nhau thì nằm trong ngoặc đơn).
Vòng loại thứ ba.
<section begin=3QR />
Lễ bốc thăm cho vòng loại thứ ba được tổ chức vào ngày 24 tháng 7 năm 2023.<section end=3QR />
Tóm tắt.
<section begin=3QR />
Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 8 và 10 tháng 8, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 17 tháng 8 năm 2023.
Đội thắng của các cặp đấu đi tiếp vào vòng play-off. Đội thua được chuyển qua vòng play-off Europa Conference League thuộc nhóm tương ứng của họ.
Nhóm các đội vô địch.
"BK Häcken thắng với tổng tỷ số 8–1."
"Qarabağ thắng với tổng tỷ số 4–2."
"Zrinjski Mostar thắng với tổng tỷ số 6–3."
"Sheriff Tiraspol thắng với tổng tỷ số 7–3."
"Ludogorets Razgrad thắng với tổng tỷ số 6–3."
Nhóm chính.
"Olympiacos thắng với tổng tỷ số 2–1."
"Slavia Prague thắng với tổng tỷ số 4–1."
Vòng play-off.
<section begin=PO />
Lễ bốc thăm cho vòng play-off được tổ chức vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.<section end=PO />
Tóm tắt.
<section begin=PO />
Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 24 tháng 8, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 31 tháng 8 năm 2023.
Đội thắng của các cặp đấu đi tiếp vào vòng bảng. Đội thua được chuyển qua vòng bảng Europa Conference League. |
19,822,521 | 70598100 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822521 | Get Blake! (phim) | Get Blake! là một bộ phim hoạt hình do Antonie Guilbaud tạo ra và được sản xuất bởi Marathon Media và hãng Nickelodeon (Nickelodeon Productions). Bộ phim này được phát sóng trên cả 2 đài: Gulli và Nickelodeon ở Pháp.
Theo Marathon Media, bộ phim này là loạt phim hài rộng rãi đầu tiên sau nhiều năm thực hiện những pha hành động nhẹ nhàng như ""Totally Spies!" hoặc "Martin Mystery"". "Get Blake!" đã kết thúc vào ngày 29 tháng 10 năm 2015, với tổng cộng 26 tập.
Tóm tắt.
Loạt phim theo chân Blake Myers, một cậu bé tuổi teen thích phiêu lưu, người được định sẵn một ngày sẽ bảo vệ loài người khỏi những con sóc ngoài hành tinh được gọi là ""Squaliens". Tuy nhiên, các Squalien đã được gửi ngược thời gian để ngăn Blake hoàn thành sứ mệnh này.
Phát tin.
"Get Blake!" ban đầu sẽ được công chiếu trên Nickelodeon ở Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2015, nhưng thay vào đó, nó đã bắt đầu phát sóng trên vào ngày 20 tháng 4 năm 2016. Ở Ả Rập, nó đang được phát sóng trên cả Nickelodeon và Nicktoons. Nó cũng được phát sóng trên ABC Me ở Úc.
Chiếu tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, phim được chiếu trên kênh SAM - BTV11 với tên "Blake và người ngoài hành tinh (?)".
Chủ đề.
Mỗi tập phim luôn chứa đựng những thông điệp về tình bạn trong sáng, tinh thần dũng cảm chiến đấu chống lại cái ác, dù khó khăn nhưng không lùi bước, từ đó hình thành nhân cách tốt cho các khán giả nhỏ tuổi. |
19,822,526 | 536098 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822526 | Nguyễn Văn Đức (Thiếu tướng Công an) | Nguyễn Văn Đức là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông hiện đang giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Trang bị và kho vận, Bộ Công an (Việt Nam).
Xuất thân.
Nguyễn Văn Đức, sinh năm 1963. Quê quán tại xã Thuận Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
Tiểu sử.
Nguyễn Văn Đức sinh năm 1963, ông quê quán tại xã Thuận Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
Ông từng kinh qua nhiều chức vụ tại Công an tỉnh Long An, Trưởng Công an huyện Tân Trụ, Trưởng phòng Tham mưu Công an tỉnh Long An, Uỷ viên BTV tỉnh ủy, Phó bí thư đảng ủy, Phó giám đốc Công an tỉnh Long An, Thủ trưởng Cơ quan Thi hình án hình sự Công an tỉnh Long An, Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Long An, Thủ trưởng Cơ quan CSGT đường bộ và đường thủy Công an tỉnh Long An.
Ngày 8 tháng 6 năm 2020, khi đang là Đại tá, Phó Giám đốc Công an tỉnh Long An, Thừa ủy quyền của Bộ trưởng Bộ công an. Giám đốc Công An tỉnh Long An, Đại tá Lê Hồng Nam (hiện giờ là Thiếu tướng Giám đốc Công An thành phố Hồ Chí Minh) đã ký Quyết định điều động ông giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Trang bị và kho vận, Bộ Công an (Việt Nam).
Ngày 2 tháng 9 năm 2020, ông được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Phú Trọng phong quân hàm Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. |
19,822,528 | 739642 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822528 | Fara Tashkentskiy | Fara Tashkentskiy Phim truyền hình tiếng Uzbekistan của Shahrukh Murtazaev và Ziyo Sultanov thuộc thể loại phim hài và chính kịch tội phạm. Vai chính do thủ vai, người đóng vai một capo vừa mới ra tù. Buổi ra mắt diễn ra trên nền tảng phát trực tuyến Social Media vào ngày 13 tháng 5 và tháng 5 năm 2022.
Tóm tắt.
Một tay vợt có thẩm quyền ở Almaty, sau 23 năm hôn mê, đột nhiên tỉnh lại. Trước sự kinh hoàng của mình, anh ấy nhận ra rằng năm đó là năm 2021, các con của anh ấy đã lớn, bản thân anh ấy đã già đi và thế giới đã thay đổi ngoài sự công nhận. Bây giờ anh ấy cần thích nghi với thực tế và cải thiện mối quan hệ với gia đình.
Sự sáng tạo.
Thời điểm bắt đầu phát triển loạt phim truyền hình đã được công bố vào tháng 12 năm 2021. Vào thời điểm đó, dự án có tên làm việc là "Fara". Người tạo ra nó là Sardor Nzamov, và người dẫn chương trình là Shakhrukh Murtazaev. đã được phê duyệt cho vai chính, người mà dự án đã trở thành tác phẩm đầu tay trên truyền hình. Vào tháng 2 năm 2022, việc sản xuất mùa đầu tiên đã được đặt hàng. Vào tháng 1 năm 2022, tên của bộ truyện đã được thay đổi: Fara Tashkentsky được đặt tên cho bộ truyện vì các sự kiện trong bộ truyện diễn ra ở Tashkent. Sau đó, người ta biết rằng Bobur Pirmatov, , Malika Avazova, Abror Sainazarov sẽ đóng vai chính trong phim truyền hình. Sau đó, Azim Yuldashev và tham gia dàn diễn viên.
Sheridan nảy ra ý tưởng cho loạt phim truyền hình trong đại dịch COVID-19. Trong vòng một tuần, anh ấy đã viết kịch bản cho tập thử nghiệm và được đồng ý tham gia dự án.
Quá trình quay phim truyền hình bắt đầu vào tháng 3 và kết thúc vào tháng 8 năm 2022.
Hậu kỳ.
Âm nhạc cho bộ phim "Fara Tashkentskiy" được viết bởi Shohrukhkhon Karimov. Kỹ sư âm thanh Xakim Shotboev. Thiết kế âm thanh bởi Xakim Shotboev.
Tổ hợp hậu kỳ âm thanh CineLab Dolby Digital 5.1. Nhà sản xuất chung là Xakim Shotboev. |
19,822,529 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822529 | Chuột Mickey (Last Week Tonight with John Oliver) | Chuột Mickey hay Mickey Mouse là một nhân vật hư cấu và linh vật trong chương trình trò chuyện đêm khuya của Mỹ "Last Week Tonight with John Oliver". Dựa trên nhân vật cùng tên của Disney, nhân vật này được tạo ra để chế nhạo Công ty Walt Disney trước khi phiên bản Chuột Mickey của Disney chuyển sang phạm vi công cộng vào năm 2024. Nhân vật này xuất hiện lần đầu trong mùa 10, tập 6 (tập 275 trong toàn series), trong đó người dẫn chương trình John Oliver đã công khai thách thức Disney thực hiện hành động pháp lý chống lại anh ta.
Sáng tạo.
Tập phát sóng 2 tháng 4 năm 2023 ("Solitary Confinement") của chương trình có một phân đoạn kiểm tra bản quyền sắp hết hạn đối với "Tàu hơi nước Willie" của Disney và các hành động trước đây của Disney để bảo vệ linh vật của họ, chẳng hạn như vận động hành lang nhằm ủng hộ việc kéo dài thời hạn bản quyền ở Hoa Kỳ. Oliver gợi ý rằng nếu không có sự bảo vệ bản quyền để ngăn chặn việc sử dụng trái phép chuột Mickey, Công ty Walt Disney có thể sẽ sử dụng luật nhãn hiệu để đạt được mục đích tương tự. Có khả năng họ lập luận rằng chuột Mickey gắn liền với thương hiệu của họ đến mức mọi hành vi sử dụng trái phép sẽ khiến người tiêu dùng hoang mang. Oliver sau đó tiết lộ rằng tiêu đề mở đầu của "Last Week Tonight" đã sử dụng hình ảnh từ "Tàu hơi nước Willie" kể từ đầu mùa và anh ấy sẽ bắt đầu sử dụng phiên bản chuột Mickey của riêng mình làm linh vật của chương trình. Anh ta tuyên bố:
Oliver cũng cho ra mắt trang phục của chuột Mickey trong tập phim mà anh ấy tuyên bố sẽ có sẵn cho các bữa tiệc sinh nhật, đám tang, khai trương công viên giải trí và địa ngục tình dục từ ngày 1 tháng 1 năm 2024. Anh ta kết luận bằng cách nói rằng mặc dù Disney có thể đã có nhiều lập luận pháp lý để bảo vệ chuột Mickey, chúng sẽ chỉ trở nên rõ ràng "nếu và khi nào" họ kiện anh ta.
Đặc tính.
Phiên bản chuột Mickey của "Last Week Tonight" đối lập mạnh so với nhân vật gốc của Disney và thường xuyên đưa ra những bình luận chính trị kích động. Nhân vật có một số câu cửa miệng, bao gồm "Jeffrey Epstein didn't kill himself" ("Jeffrey Epstein không tự sát"), "Where's Shelly Miscavige?" ("Shelly Miscavige ở đâu?") và "I hope Henry Kissinger dies soon" ("Tôi mong Henry Kissinger sớm chết"). |
19,822,534 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822534 | Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca | Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca (Hán tự: 嗣德聖製字學解義歌) là một cuốn sách tiếng Việt dạy chữ Hán thông qua chữ Nôm. Nó được biên soạn bởi Hoàng đế triều Nguyễn, Tự Đức (1848 — 1883), vào khoảng thế kỷ thứ 19. Cuốn sách bao gồm 13 tập, được chia thành 7 thư mục chính. Nội dung sách được viết theo thể thơ lục bát. Đây được xem là một quyển tự điển quan trọng cho các nhà nghiên cứu chữ Nôm bởi đây là bộ tự điển Hán-Nôm khá hoàn chỉnh mà không có ký tự mơ hồ nào.
Bối cảnh.
Bộ sách 13 quyển bao gồm 4.572 dòng thơ được viết theo thể lục bát 六八. Trong tất cả các dòng thơ này có chứa 32.004 ký tự với 9.028 trong số chúng là Hán tự. Đây được cho là một quyển tự điển song ngữ Hán-Nôm. Cuốn sách trình bày các ký tự Hán tự kèm theo ghi chú bằng ký tự chữ Nôm in kích thước nhỏ hơn. Các dẫn chứng có thể là chỉ một ký tự mà thôi cho tới cả cụm ký tự, ví dụ như ở dòng thứ năm, 月 và 日 được ghi chú bằng 𩈘𦝄 và 𩈘𡗶 một cách tương ứng.
Theo thống kê bởi Nguyễn Thị Lan, "Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca" giữ một lượng sưu tầm lớn nhất các Hán tự được chú giải bằng chữ Nôm. Hà Đăng Việt ghi nhận rằng, chữ Nôm trong cuốn sách chủ yếu sử dụng ba phương pháp để tạo ra ký tự, giả tá 假借 (mượn âm), hình thanh 形聲 (từ ghép ngữ âm), và hội ý 會意 (từ ghép tượng hình). Nhưng hầu hết các ký tự đều rơi vào trường hợp hình thanh 形聲 như được cho thấy là phương pháp đúng đắn để viết chữ Nôm.
Cuốn sách đã được phiên dịch sang chữ Quốc ngữ La-tinh bởi Trần Kinh Hoà và được xuất bản lại bởi Đại học Trung văn Hồng Kông (香港中文大學) năm 1971. |
19,822,536 | 845147 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822536 | Trevor Anderson | Trevor Anderson (sinh ngày 3 tháng 3 năm 1951) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp người Bắc Ireland. Ông từng thi đấu ở vị trí tiền đạo.
Danh hiệu.
Câu lạc bộ.
Linfield |
19,822,543 | 889492 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822543 | Tất thư | —
Tất thư (Phồn thể: 漆書; Giản thể: 漆书; Bính âm: qī shū) là một cách viết thư pháp Trung Hoa được sáng tạo ra bởi Kim Nông (1687 — ?; Giản thể: 金农; Phồn thể: 金農) dưới thời nhà Thanh. Phong cách viết là một sự kết hợp giữa lệ thư của nhà Hán và khải thư của nhà Nguỵ; hai phong cách này đã khiến cho "Tất thư" trở thành một phong cách viết độc đáo của thư pháp Trung Hoa. Kỹ thuật sử dụng để viết Tất thư rất khác biệt so với các lối viết khác. Nó yêu cầu sử dụng bút lông phẳng, không phải bút lông Đông Á thông thường.
Về người sáng tạo.
Kim Nông là một người vô cùng uyên bác về thư pháp Trung Hoa. Thư pháp của ông được nhận định là hay nhất trong số Bát quái Dương Châu. Đặc biệt là lối viết lệ thư của ông và lối viết bán thảo. Các tác phẩm của ông mang vẻ đẹp đặc trưng và trác tuyệt. Ngoài ngũ tuần, ông bắt đầu rời xa lối viết chinh quy và sử dụng những kiến thức thư pháp của mình để tạo ra lối viết "Tất thư". Kim Nông sử dụng một loại mực đặc biệt do chính ông tự làm ra, và ông cũng sử dụng một loại bút lông đặc biệt cho "Tất thư". |
19,822,545 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822545 | Hoàng Nhất Khải | Hoàng Nhất Khải (; 15801622) là thợ khắc mộc bản Trung Quốc hoạt động vào cuối thời Minh.
Thân thế.
Hoàng Nhất Khải chào đời năm 1580 tại làng Cầu (), huyện Tân An (), tỉnh An Huy. Gia đình ông đã làm nghề chạm khắc nhiều thế hệ và chuyên về tranh khắc gỗ theo trường phái Huy (); sau khi ông vừa ra đời, cả nhà họ bèn dời đến sinh sống tại Hàng Châu.
Nghề nghiệp.
Ông đã vẽ minh họa tranh khắc gỗ cho nhiều tiểu thuyết cổ điển của Trung Quốc, bao gồm "Tây sương ký" "Kĩ viện đích ca từ", "Khuê phòng đồ phiến", "Tố Nga thiên", và "Mẫu đơn đình". Lianhong Zhou của Viện Kinsey ở Bloomington, Indiana từng mô tả phong cách nghệ thuật của Hoàng Nhất Khải là "nhỏ nhắn và tinh tế". |
19,822,546 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822546 | Lã Thiên Thành | Lã Thiên Thành (; 15801618) là nhà viết kịch và nhà thơ Trung Quốc hoạt động vào cuối thời Minh.
Văn nghiệp.
Lã Thiên Thành được cho là tác giả của cuốn tiểu thuyết khiêu dâm "Tú tháp dã sử" (), mà ông đã chấp bút hồi còn độ tuổi thiếu niên. Theo bạn của ông và là một nhà phê bình chính kịch đương thời, Vương Kí Đức (), ông còn viết một cuốn tiểu thuyết lãng mạn khác mang tên "Nhàn tình biệt truyện" () "cho vui". Đã chuyển thể một số bộ vở kịch bao gồm "Tây sương ký" và "Bạch thố ký", Bản thân ông cũng là một nhà phê bình kịch. Tác phẩm nổi tiếng năm 1613 của ông có nhan đề "Khúc phẩm" () bao gồm khoảng 90 tiểu sử của các nhà viết kịch, cùng với các bài bình luận về các vở kịch đáng chú ý từ triều đại Yuan đến triều đại nhà Minh; theo "Từ điển lịch sử sân khấu Trung Quốc", "Khúc phẩm" là "một trong những cuốn sách có ảnh hưởng nhất về kinh kịch, Nam kịch, truyền thuyết và Côn kịch." |
19,822,547 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822547 | Meikyoku kissa | là thuật ngữ tiếng Nhật để chỉ loại hình quán cà phê nơi khách hàng có thể nghe nhạc cổ điển khi thưởng thức cà phê và các loại đồ uống khác. Tại nhiều nơi, vị khách có thể yêu cầu bản nhạc yêu thích của mình.
"Meikyoku kissa" lần đầu tiên xuất hiện vào thập niên 1950. Hầu hết mọi người không thể mua đĩa LP đắt tiền, vì vậy họ nghe nhạc cổ điển tại các quán cà phê kiểu này. Hiện nay, số lượng "meikyoku kissa" tại Nhật Bản đang giảm dần. |
19,822,548 | 479787 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822548 | Trường Đại học Ngoại ngữ | Trường Đại học Ngoại ngữ có thể là: |
Subsets and Splits