id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
50
512k
text_length
int64
50
512k
19832705
https://vi.wikipedia.org/wiki/Muerte%20cruzada
Muerte cruzada
Trong chính trị Ecuador, () là thuật ngữ chỉ một cơ chế luận tội tổng thống và giải tán Quốc hội được quy định trong Điều 130 và Điều 148 của Hiến pháp năm 2008. Theo Điều 148, tổng thống có quyền giải thể Quốc hội, nhưng phải trả giá bằng việc cho cử tri cơ hội bỏ phiếu bầu tổng thống ra khỏi nhiệm sở. Cơ chế này yêu cầu tổ chức một cuộc bầu cử đặc biệt sau khi giải thể, trong đó sẽ bầu ra tổng thống và phó tổng thống mới, cũng như Quốc hội mới. Các ứng cử viên đắc cử - vào cả hai nhánh hành pháp và lập pháp - sẽ phục vụ hết phần còn lại của nhiệm kỳ tổng thống và lập pháp hiện tại. Sau đó, một cuộc bầu cử thường kỳ cho nhiệm kỳ bốn năm đầy đủ sẽ được tổ chức theo lịch bầu cử thông thường. Điều 130 cũng quy định tương tự trong trường hợp tổng thống bị luận tội thành công: tổng thống đương nhiệm có thể bị bãi nhiệm bởi hai phần ba số thành viên của Quốc hội (92/137 phiếu), nhưng nếu tổng thống bị bãi nhiệm theo cách này, phải tổ chức bầu cử mới để bầu ra tổng thống mới và Quốc hội mới để phục vụ hết phần còn lại của nhiệm kỳ hiện tại. Vì vậy, khía cạnh "tử vong chéo" của các quy định này phát sinh từ một yếu tố chính: "khi giải thể một nhánh của chính phủ, nhánh kia sẽ cho cử tri quyết định về việc tiếp tục giữ chức vụ của mình: nói cách khác, các cuộc bầu cử được tổ chức đối với cả nhánh chính phủ bị giải thể và nhánh yêu cầu giải thể." Quy định muerte cruzada được đưa ra nhằm tránh tình trạng bế tắc chính trị kéo dài đã từng đặc trưng cho Ecuador dưới các hiến pháp trước đây. Nó được coi là một cách giải quyết khủng hoảng hiến pháp nhưng nó cũng bị chỉ trích là có thể dẫn đến bất ổn chính trị và suy yếu thể chế. Một phán quyết của Tòa án Hiến pháp vào tháng 9 năm 2010 mô tả muerte cruzada là "một công cụ kiểm tra và cân bằng nhằm cân bằng một nhánh của chính phủ với một nhánh khác". Chú thích
1,826
19832706
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ahmad%20Tejan%20Kabbah
Ahmad Tejan Kabbah
Alhaji Ahmad Tejan Kabbah (16 tháng 2 năm 1932 – 13 tháng 3 năm 2014) là chính trị gia Sierra Leone, Tổng thống thứ 3 của Sierra Leone trong hai giai đoạn 1996-1997 và 1998-2007. Ông cũng là nhà kinh tế và luật sư chuyên nghiệp, nhiều năm làm việc cho Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc. Năm 1992, ông nghỉ hưu ở Liên Hợp Quốc và trở về Sierra Leone. Đầu năm 1996, Kabbah được bầu làm lãnh đạo Đảng Nhân dân Sierra Leone (SLPP) và đại diện cho đảng tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống tự do đầu tiên tại Sierra Leone vào cuối năm. Ông đắc cử với 59% phiếu bầu, đánh bại đối thủ John Karefa-Smart của Đảng Nhân dân Toàn quốc Thống nhất (UNPP): Karefa-Smart thừa nhận thất bại với 40% phiếu vòng hai. Cuộc bầu cử được các quan sát viên quốc tế đánh giá là tự do và công bằng. Kabbah vận động tranh cử với lời hứa sẽ chấm dứt nội chiến nếu được bầu làm tổng thống và đã lặp lại trong phát biểu nhậm chức. Là người Mandingo sùng đạo Hồi, Kabbah sinh tại Pendembu, Quận Kailahun miền Đông Sierra Leone, nhưng lớn lên ở thủ đô Freetown. Kabbah là người Hồi giáo đầu tiên làm nguyên thủ quốc gia và tính đến năm 2023 vẫn là người Hồi giáo duy nhất giữ chức vị này của Sierra Leone. Năm 1965, Kabbah kết hôn lần đầu với Patricia Tucker là Kitô hữu người Sherbro gốc Quận Bonthe miền Nam Sierra Leone. Cả hai có năm người con. Trước khi làm tổng thống, cả hai vợ chồng vẫn thường xuyên xuất hiện trước công chúng. Bà có ảnh hưởng rất lớn trong nhiệm kỳ tổng thống của chồng, tập trung chủ yếu vào các vấn đề nhân đạo và quyết liệt yêu cầu phải chấm dứt nội chiến. Năm 1998, Tucker qua đời vì bạo bệnh. Năm 2008, Kabbah tái hôn với Isata Jabbie Kabbah cũng là người Mandingo theo đạo Hồi. Phần lớn thời gian Kabbah tại vị là giai đoạn nội chiến với Mặt trận Liên minh Cách mạng do Foday Sankoh cầm đầu. Ông tạm thời mất ghế từ tháng 5 năm 1997 đến tháng 3 năm 1998 do bị Hội đồng Cách mạng Quân lực lật đổ. Cộng đồng Kinh tế Tây Phi (ECOWAS) do Nigeria đứng đầu can thiệp quân sự vào Sierra Leone, Kabbah nhanh chóng trở lại nắm quyền. Tổng thống Kabbah tiến hành đàm phán trực tiếp với phiến quân RUF để chấm dứt nội chiến. Ông ký một số hòa ước với Foday Sankoh, trong đó có Hiệp định hòa bình Lomé năm 1999 khi phe nổi dậy lần đầu tiên đồng ý ngừng bắn tạm thời với chính phủ. Khi thỏa thuận ngừng bắn sụp đổ, Kabbah vận động quốc tế như Anh, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Liên minh châu Phi và Cộng đồng Kinh tế Tây Phi hỗ trợ đánh bại quân nổi dậy và khôi phục hòa bình, trật tự ở Sierra Leone. Tháng 1 năm 2002, Kabbah tuyên bố nội chiến chính thức kết thúc, chấm dứt chiến tranh. Cùng năm, Kabbah tiếp tục dễ dàng giành chiến thắng trong nhiệm kỳ 5 năm đánh bại đối thủ chính Ernest Bai Koroma của Đảng Đại hội Toàn dân (APC) đối lập với 70,1% phiếu bầu. Kabbah qua đời ngày 13 tháng 3 năm 2014, thọ 82 tuổi, an táng tại Freetown.
2,838
19832711
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A7u%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Lansdowne
Hầu tước xứ Lansdowne
Hầu tước xứ Lansdowne (tiếng Anh: Marquess of Lansdowne) là một danh hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Đại Anh được thành lập vào năm 1784 và trao cho người đứng đầu gia tộc Petty-Fitzmaurice là William Petty, Bá tước thứ 2 của Shelburne. Vị hầu tước đầu tiên từng là Thủ tướng của Đại Anh. Tháng 12/1784, sau khi rời ghế Thủ tướng Anh, Bá tước William Petty đã được Vua George III trao cho các tước vị Hầu tước xứ Lansdowne, Bá tước xứ Wycombe, Tử tước Calne và Calston, tất cả đều thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh.
508
19832713
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Manchester
Công tước xứ Manchester
Công tước xứ Manchester (tiếng Anh: Duke of Manchester) là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh và là tước hiệu cao cấp nhất hiện nay của Nhà Montagu. Nó được tạo ra vào năm 1719 cho chính trị gia Charles Montagu, Bá tước thứ 4 xứ Manchester. Giáo xứ Manchester ở Jamaica được đặt theo tên của vị Công tước thứ 5, trong khi thủ phủ Mandeville của giáo sứ được đặt theo tên con trai và người thừa kế của ông. Công tước hiện tại là Alexander Montagu, Công tước thứ 13 xứ Manchester, một công dân Anh và Úc gây tranh cãi, sống ở Hoa Kỳ và đã thụ án nhiều lần. Ông kế vị tước hiệu vào năm 2002 sau cái chết của cha mình là Angus Montagu, Công tước thứ 12 xứ Manchester, vị công tước cuối cùng giữ một ghế trong Viện Quý tộc. Người thừa kế hợp pháp của Công tước sẽ được nhận tước hiệu Bá tước xứ Manchester, ngoài ra, công tước còn được kèm theo 2 tước hiệu phụ là Tử tước Mandeville và Nam tước Montagu xứ Kimbolton.
921
19832763
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Northumberland
Công tước xứ Northumberland
Công tước Northumberland (tiếng Anh: Duke of Northumberland) là một tước hiệu đã được tạo ra ba lần trong lịch sử của Anh, hai lần thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh và một lần trong Đẳng cấp quý tộc Đại Anh. Người nắm giữ tước hiệu này hiện nay là Ralph Percy, Công tước thứ 12 xứ Northumberland. Lần tạo ra gần đây nhất là vào năm 1766, khi vua George III của Anh trao cho Hugh Percy, Bá tước thứ 2 xứ Northumberland. Người thừa kế hợp pháp của Công tước được nhận tước hiệu Bá tước xứ Percy.
486
19832768
https://vi.wikipedia.org/wiki/Little%20Saigon%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Cam
Little Saigon, Quận Cam
Westminster, California Short description is different from Wikidata Quận Little Saigon ở các thành phố Garden Grove và Westminster ở Quận Cam, California là Tiểu Sài Gòn lớn nhất ở Hoa Kỳ. Saigon là tên cũ của thủ đô Việt Nam Cộng hòa, nơi mà một phần lớn các nhập cư đời đầu ở đây bắt nguồn. Lịch sử Từ năm 1975, người Việt tị nạn đầu tiên đến Westminster từ trại Pendleton, nằm cách Westminster 50 dặm về phía Nam và từ các tiểu bang khác như Pennsylvania, Arkansas, Florida. Những cơ sở thương mại đầu tiên được lập ra là tiệm Phở Hoà và chợ Đà Lạt gần ngã tư đường First và Fairview thuộc thành phố Santa Ana. Khu này sau có thêm trung tâm sinh hoạt Nguyễn Khoa Nam do Đặng Giang Sơn thành lập. Nơi đó trở thành nơi tụ tập của cộng đồng tỵ nạn. Sau đó lui về phía tây cũng trên cùng tuyến đường First nhưng có tên là Bolsa Avenue thuộc hai thành phố Garden Grove và Westminster, khoảng năm 1978 xuất hiện chợ Hòa Bình, nhà sách Tú Quỳnh, và nhà hàng Thành Mỹ. Cùng năm đó, Nhật báo Người Việt góp mặt với văn phòng phát hành đặt tại thành phố Garden Grove. Những người Việt tỵ nạn dần tập trung ở quãng đường đó mua lại các cơ sở thương mại của người địa phương và lập nên một khu phố thương mại phảng phất hình bóng Việt Nam. Năm 1982 thì hình thành "Hiệp hội Thương gia Tiểu Sài Gòn". Sách báo tiếng Việt từ đó bắt đầu dùng danh từ "Phố Sài Gòn" nhất là khi hãng Bridgecreek cho xây thương xá hai tầng 1986-88. Địa bàn cộng đồng người Việt từ đó lan rộng tràn ra những thành phố lân cận như Stanton, Fountain Valley và Anaheim. Năm 1986, Ủy ban Thành lập Danh xưng Little Saigon, sau đổi thành Ủy ban Phát triển Little Saigon bầu lên 15 ủy viên, xúc tiến họp với hội đồng thành phố Westminster chính thức công nhận danh xưng Little Saigon. Chính ủy ban đã được 18 vị dân biểu và nghị sĩ tiểu bang giúp đỡ để đưa đề nghị thành lập Đặc khu Tiểu Sài Gòn lên thống đốc tiểu bang. Ngày 1 tháng 6 năm 1986, trước Viện Lập pháp tiểu bang, Thống đốc George Deukmejian đã chấp thuận. Nha lộ vận California theo đó cho dựng 13 bảng tên "Little Saigon" chỉ lối cho xe rẽ từ xa lộ 22 và 405 vào. Ngày 17 tháng 6 năm 1986, thị trưởng Westminster Chuck Smith đã làm lễ ra mắt Đặc khu Little Saigon trước thương xá Phước Lộc Thọ. Buổi lễ được đặt dưới sự chủ toạ của thống đốc tiểu bang và có sự hiện diện của đông đảo người Việt Nam trong vùng. Bố trí và các dịch vụ phải|nhỏ|240x240px|Khu văn phòng của người Việt tại Little Saigon. phải|nhỏ|240x240px|Một chi nhánh ngân hàng Bank of America với lời chào bằng tiếng Việt Little Saigon tại Quận Cam có diện tích rộng lớn, với nhiều khu thương xá của người Việt và người Hoa và nằm giữa xa lộ California 22 và xa lộ Liên bang 405. Ngoài các khu thương xá còn có siêu thị và nhà hàng bán các món ăn Việt Nam như cơm tấm, phở, bánh mì, bánh cuốn. Năm 2016, một dịch vụ xe buýt miễn phí tên Little Saigon Shuttle được khánh thành để đưa đón hành khách mua sắm trong khu vực và phục vụ 22 trạm dừng. Tuy nhiên dịch tạm dừng sau 6 tháng do chi phí cao. Xe đò Hoàng, một dịch vụ xe đò đường dài, nối liền Little Saigon ở Quận Cam với cộng đồng ở San Jose và nhiều thành phố khác ở California và Arizona có đông người Việt sinh sống. Truyền thông Little Saigon, đặc biệt là ở tại Westminster, thường được xem là trung tâm của ngành truyền thông Việt ngữ tại hải ngoại. Hầu hết các chương trình ca nhạc hải ngoại đều được phát hành tại đây, trong đó có trung tâm Thúy Nga, trung tâm Asia, trung tâm Vân Sơn, v.v. Vì thế, rất nhiều ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại cư ngụ tại khu vực này. Có hai đài phát thanh phát sóng tiếng Việt 24 giờ mỗi ngày là Little Saigon Radio (trên KVNR 1480 AM) và Radio Bolsa (KALI 106.3 FM). Một đài khác thỉnh thoảng có chương trình tiếng Việt (KXMX-AM 1190). Nội dung phát sóng bao gồm tin tức, thời sự, âm nhạc, talk show, tôn giáo, đọc truyện, v.v. Chương trình Việt ngữ của đài BBC và RFI được tiếp vận trực tiếp trên những đài này, mỗi ngày hai lần. Gần đây đài Little Saigon Radio cũng có nỗ lực phát thanh về Việt Nam. Có 4 đài truyền hình phát sóng suốt ngày bằng Việt ngữ tại miền nam California. Hai đài truyền hình vệ tinh, Saigon Broadcasting Television Network và Hồn Việt TV cũng có trụ sở tại đây và có thể xem được trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Tại đây có hàng chục tờ báo tiếng Việt được bán bên cạnh các báo tiếng Anh, có tiếng nhất trong số đó là Báo Người Việt. Những tờ nhật báo lớn khác có thể nói đến là Việt Báo, Viễn Đông, v.v. Nhiều tuần báo, nguyệt san và báo phục vụ giới trẻ cũng được phát hành như Việt Tide (song ngữ) và Người Việt 2 (bằng tiếng Anh). Chính trị nhỏ|Biểu ngữ "Black April" (Tháng Tư Đen) và Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa treo trên đường phố Little Saigon ở San Diego Little Saigon là một địa phương chống cộng mãnh liệt. Sự kiện Trần Trường đầu năm 1999 được xem là điểm mốc quan trọng trong hoạt động chính trị của người Việt tại Little Saigon nói riêng và Hoa Kỳ nói chung. Sự kiện xảy ra sau khi một người làm nghề cho thuê băng video tên là Trần Văn Trường treo cờ đỏ sao vàng và hình Hồ Chí Minh trên cửa tiệm. Sau khi ông không được chú ý, ông đã gửi fax đến một số cơ quan truyền thông cộng đồng để loan báo về hành động của mình. Trong gần hai tháng sau đó, hàng nghìn người Việt biểu tình hằng ngày phản đối ông Trường và chính phủ Việt Nam, với điểm cao là một cuộc thắp nến được tổ chức bởi các đoàn thể sinh viên Mỹ gốc Việt, với sự tham dự của hơn 15.000 người, và được báo chí toàn quốc và quốc tế theo dõi. Sự việc kết thúc sau khi ông Trường bị kết án cho thuê băng lậu, và bị buộc phải đóng cửa tiệm. Ông Trường cho biết mình bị đánh năm lần và phải vào bệnh viện, ông đã mất hết gia sản, khoảng một triệu đôla, và vợ ông, sau những biến cố, đã 'mắc bệnh tâm thần; đồng thời khẳng định đây là án sai, rằng 'ông không sang băng lậu, mà có hợp đồng kinh doanh với các công ty của Tàu. "Sự kiện đã đưa ra nhiều vấn đề về tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ, một số người ra đại diện làm trung gian với báo chí để phát biểu quan điểm của những người biểu tình. Nhiều người lãnh đạo trong cuộc biểu tình cảm thấy tự tin hơn và bắt đầu tham gia chính trường và vận động cộng đồng như trong Chiến dịch Cờ Vàng. Người Mỹ gốc Việt, dựa vào số đông, đã và đang nắm giữ quyền lực chính trị đáng kể tại hai thành phố Westminster và Garden Grove. Nhiều người tham gia vào các hoạt động chính trị tại địa phương và được bầu vào các chức vụ công. Ví dụ như Janet Nguyễn, vào năm 2007 trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên lên làm giám sát viên quận trên toàn quốc. Ông Trần Thái Văn đắc cử dân biểu tiểu bang California từ năm 2004 và trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên được bầu vào ngành lập pháp tiểu bang. Sinh hoạt cộng đồng phải|nhỏ|240x240px|Hội chợ Tết tại Little Saigon, Quận Cam, California Năm 2003, Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ (tiếng Anh: Vietnam War Memorial) đã được xây dựng tại Westminster để tưởng niệm những người lính Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ đã hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam hồi thế kỷ trước. Ngày 12 Tháng Tám năm 2009, Hội đồng thành phố Westminster, California lại thông qua nghị quyết 4257 công nhận ngày Thứ Bảy cuối cùng mỗi Tháng Tư sẽ là "Ngày Thuyền nhân Việt Nam". Trường Bolsa Grande High School tại Garden Grove là nơi tổ chức Hội Tết Việt Nam hàng năm do Tổng hội sinh viên Việt Nam Nam Cali UVSA tổ chức cho hàng trăm ngàn người tham dự. Hàng năm, từ năm 1997, vào ngày Tết Nguyên Đán, Little Saigon tại San Jose cũng có cuộc diễn hành Tết hoành tráng do Hội Diễn Hành Tết (Vietnamese Spring Festival, VSF) tổ chức, với sự kết hợp của nhiều hội đoàn, tổ chức. Từ năm 2003, Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival hay ViFF) là một đại hội điện ảnh diễn ra 2 năm một lần tại Đại học California tại Irvine và nhiều địa điểm quanh vùng Little Saigon của Quận Cam, California, Mỹ.
7,747
19832769
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A7u%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Townshend
Hầu tước Townshend
Hầu tước Townshend (tiếng Anh: Marquess Townshend) là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Đại Anh do gia tộc Townshend xứ Raynham Hall ở Norfolk nắm giữ. Danh hiệu này được tạo ra vào năm 1787 cho George Townshend, Tử tước Townshend thứ 4. Người thừa kế hợp pháp tước vị hầu tước được nhận tước vị Tử tước Townshend xứ Raynham. Chú thích
338
19832771
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B9ng%20%E1%BB%A8ng%20B%C6%B0u
Sùng Ứng Bưu
Sùng Ứng Bưu ( tiếng Trung :崇应彪; bính âm : Chóng Yīngbiāo ) là một nhân vật trong tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng của Trung Quốc Phong Thần Diễn Nghĩa . Sùng Ứng Bưu là con trai của Sùng Hầu Hổ , Chư Hầu lớn phương Bắc. Trong liên minh chống lại Tô Hộ , Sùng Ứng Bưu hỗ trợ cha mình với tiềm năng lớn nhất của mình. Sau cái chết của Mai Võ và việc Sùng Ứng Bưu rút lui vào khu rừng lân cận, Sùng Ứng Bưu cố gắng hết sức để hỗ trợ người cha bị trầm cảm của mình bằng mọi cách. Một khi Sùng Ứng Bưu và tất cả người của anh ta bị lực lượng của Tô Hộ đuổi ra khỏi rừng, Sùng Ứng Bưu dẫn đầu hậu quân hỗ trợ. Khi rút lui, Sùng Ứng Bưu bảo cha mình gửi thư cho Văn Vương và lập tức xin quân đến hỗ trợ. Vì vậy, Sùng Ứng Bưu, kết hợp với Sùng Hắc Hổ , sẽ bảo vệ Sùng Hầu Hổ đến mức sức mạnh tối thượng của họ. Sau khi liên minh Tô Hộ kết thúc, Sùng Ứng Bưu vẫn là người đứng đầu Sùng Thành, thủ đô của Sùng Hầu Hổ. Bảy năm sau thời điểm này, trong cuộc tấn công của Vua Văn Vương vào Sùng Thành, Sùng Ứng Bưu bảo vệ thủ đô bằng toàn bộ tiềm năng của mình. Tuy nhiên, một khi mưu kế của Sùng Hắc Hổ thành công, Sùng Ứng Bưu bị chặt đầu - cùng với cha mình.  Cuối cùng, Sùng Ứng Bưu đã được phong làm vị thần ở Bảng Phong Thần (九曜星宫). Trong văn hóa đại chúng Thông tin thêm: Danh sách các bản chuyển thể trên phương tiện truyền thông của Lễ tấn phong các vị thần -Do Hầu Văn Nguyên thể hiện trong bộ phim sử thi Trung Quốc năm 2023 Creation of the Gods I: Kingdom of Storms
1,465
19832790
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%95%20c%E1%BB%A7i
Bổ củi
Bổ củi có thể là: -Họ Bổ củi -Hành động để chặt gỗ
50
19832791
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20%C4%91%E1%BB%81%20c%E1%BB%AD%20v%C3%A0%20gi%E1%BA%A3i%20th%C6%B0%E1%BB%9Fng%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90i%E1%BB%87p%20v%E1%BB%A5%20Boston
Danh sách đề cử và giải thưởng của Điệp vụ Boston
Dưới đây là danh sách đề cử và giải thưởng của phim Điệp vụ Boston. Chú thích
77
19832796
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tsujii%20Honoka
Tsujii Honoka
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti T-Powers. Sự nghiệp Cô sinh ra tại tỉnh Okayama. Tháng 3/2019 cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với hình tượng là một nữ diễn viên kyonyū cao (172 cm). Tháng 10/2020, cô xếp thứ 2 trong bảng xếp hạng nữ diễn viên khiêu dâm hàng tháng của sàn bán hàng qua bưu điện của FANZA. Cô cũng đã xếp thứ 2 trong bảng xếp hạng nữ diễn viên khiêu dâm FANZA dựa trên cuộc điều tra của tạp chí FANZA hàng tháng. 30/11/2021, cô đã được đề cử bởi Playboy Channel tại Giải thưởng truyền hình phim khiêu dâm Sky PerfecTV và đã nhận giải Valuable Actress of Playboy channel. 2/2/2023, có tin tức rằng cô đã gặp tai nạn khiễn mũi bị gãy, vỡ xương sọ ngoài và phải khâu 15 mũi ở vùng trên mí mắt. 22/5/2023, phim của cô "BAZOOKA khuyến mãi lớn phim hay với ngực lớn và gay cấn nhất bản giới hạn không cắt của mùa đông dành cho người hâm mộ dài 2749 phút" (BAZOOKA 冬の大感謝セール コスパ最強ノーカットベスト爆乳限定2749分) (BAZOOKA) đã xếp thứ nhất trên bảng xếp hạng sàn video FANZA hàng tuần. Đời tư Sở thích của cô là xem phim còn kĩ năng đặc biệt của cô là chơi bóng rổ.
1,092
19832802
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%A1ch%20s%E1%BA%A1n%20Aladdin
Khách sạn Aladdin
Aladdin là một khách sạn và sòng bạc nằm trên Las Vegas Strip ở Paradise, Nevada. Nhà sản xuất đồ chơi Edwin S. Lowe đã khai trương Khách sạn Tallyho 450 phòng trên khu đất này vào năm 1962. Tallyho là khách sạn lớn duy nhất ở Nevada không có sòng bạc; nó đóng cửa vào cuối năm và được bán cho Kings Crown Inns of America, một chuỗi khách sạn đã mở lại khách sạn một tháng sau với tên King's Crown Tallyho. Công ty đã bổ sung thêm sòng bạc và phòng trưng bày nhưng kế hoạch mở sòng bạc đã bị dừng lại khi Ủy ban Kiểm soát Trò chơi Nevada từ chối cấp giấy phép đánh bạc vì lo ngại khu nghỉ dưỡng không được tài trợ đầy đủ. Milton Prell đã mua khách sạn và bắt đầu một cuộc cải tạo rộng rãi trị giá 3 triệu đô la trước khi mở lại khách sạn với tên Aladdin vào ngày 1 tháng 4 năm 1966. Một tòa tháp khách sạn 19 tầng đã được thêm vào năm 1976. Sau nhiều lần thay đổi chủ sở hữu, Aladdin đã bị đóng cửa vào năm 1997 và bị phá hủy vào năm sau để nhường chỗ cho một khu nghỉ dưỡng Aladdin mới khai trương vào năm 2000. Lịch sử Tallyho (1962–1963) Khách sạn Tallyho theo phong cách kiến trúc Tudor của Anh được hình thành bởi chủ sở hữu Edwin S. Lowe, một nhà sản xuất đồ chơi ở New York, người cũng kiêm nhiệm chức vụ chủ tịch khách sạn. Lowe, người tin rằng có một số khách du lịch Las Vegas không quan tâm đến cờ bạc, đã chọn không thêm sòng bạc vào Tallyho. Khách sạn được xây dựng trên Las Vegas Strip, đối diện với khu nghỉ dưỡng Dunes. Việc xây dựng Tallyho đã được tiến hành vào tháng 3 năm 1962, với kế hoạch khai trương vào tháng 7. Vào tháng 5 năm 1962, Hội đồng Nước ngầm Quận Clark đã từ chối đơn xin cấp giấy phép giếng nước sẽ được sử dụng cho sân golf pitch and putt chín lỗ, mà Lowe dự định xây dựng ở phía sau khu đất. Một sân golf chín lỗ cuối cùng đã được thêm vào các kế hoạch cuối cùng. Vào tháng 6 năm 1962, việc khai trương khách sạn đã bị trì hoãn đến ngày 1 tháng 10 năm 1962. Đồng thời, các quan chức quận phát hiện ra rằng khách sạn ba tầng bằng vữa có thể vi phạm quy tắc phòng cháy chữa cháy. Chủ sở hữu được yêu cầu đề xuất kế hoạch chống cháy cho mái nhà và gác mái bằng gỗ của khách sạn. Các quan chức quận đề xuất lắp đặt hệ thống phun nước hoặc vách thạch cao ở gác mái, cũng như bổ sung các vật liệu chống cháy trên mái của các cấu trúc khách sạn. Vào tháng 11 năm 1962, các vị trí quan trọng trong khu nghỉ dưỡng đã được công bố và ngày khai trương vào tuần Giáng sinh đang được lên kế hoạch. Khách sạn Tallyho và Country Club khai trương vào ngày 24 tháng 12 năm 1962, với chi phí 12 triệu đô la. Lễ khai trương hoành tráng được tổ chức vào tháng 2 năm 1963. Đây là khu nghỉ dưỡng lớn duy nhất ở Nevada không có sòng bạc. Khách sạn có 450 phòng, 32 biệt thự, 6 nhà hàng, khu vực cưỡi ngựa và đi xe đạp, và dịch vụ trực thăng đưa đón khách đến các điểm tham quan gần đó như Núi Charleston và Hồ Mead. Mặc dù không có sòng bạc, nhưng khách sạn đã hoạt động thành công vào thời điểm khai trương. Tuy nhiên, Tallyho đã đóng cửa vào ngày 10 tháng 10 năm 1963 do doanh thu thấp gây ra bởi việc thiếu sòng bạc. Việc đóng cửa đã ảnh hưởng đến 100 nhân viên, và Lowe thừa nhận rằng đó là một sai lầm khi không mở khách sạn với một sòng bạc liền kề. King's Crown Tallyho (1963–1966) Chuỗi khách sạn Kings Crown Inns of America đã mua lại Tallyho với giá 7 triệu đô la Mỹ và mở cửa lại với tên King's Crown Tallyho vào ngày 5 tháng 11 năm 1963. Kings Crown dự định sẽ sớm bổ sung thêm sòng bạc và phòng trưng bày. Tallyho là khách sạn đầu tiên của Kings Crown ở miền tây Hoa Kỳ. Hệ thống ánh sáng và âm thanh cho phòng trưng bày được hoàn thiện vào tháng 3 năm 1964, trong khi Kings Crown dự định khai trương phòng trưng bày vào mùa hè. Những người thiết kế âm thanh cho phòng trưng bày đã tham khảo ý kiến của các kỹ sư âm thanh tại Đại học California, Los Angeles. Nhà sản xuất phim Steve Parker, chồng của nữ diễn viên Shirley MacLaine, được bổ nhiệm làm giám đốc phòng trưng bày của khách sạn, với tên gọi Crown Room Theater-Restaurant. Ngoài ra, Parker cũng được bổ nhiệm làm đồng sở hữu khu nghỉ dưỡng. Vào tháng 4 năm 1964, một đám cháy đã xảy ra tại một trong những phòng khách sạn và gây thiệt hại do khói cho một phần của khách sạn. Đám cháy được cho là do một điếu thuốc lá gây ra. Lễ khởi công xây dựng sòng bạc và phòng trưng bày được lên kế hoạch vào cuối tuần ngày 11-12 tháng 4 năm 1964. Các nhân vật nổi tiếng, bao gồm MacLaine, dự kiến sẽ tham dự buổi lễ. Các hạng mục bổ sung khác trong dự án mở rộng trị giá 3 triệu đô la sẽ bao gồm một hội nghị và một nhà hàng khác. Kế hoạch tương lai bao gồm việc bổ sung một tòa nhà khách sạn 15 tầng với 500 phòng. Việc xây dựng sòng bạc và phòng trưng bày đã được tiến hành vào tháng 5 năm 1964. Trong khi đó, Parker đang lên kế hoạch cho một chương trình sẽ có sự tham gia của các cô gái biểu diễn không hở ngực, một khái niệm không có trong các chương trình biểu diễn của các cô gái biểu diễn khác ở Las Vegas. Đến cuối năm 1964, một tập đoàn gồm 6 công ty, với tổng số 17 cổ đông, đã nộp đơn xin giấy phép kinh doanh cờ bạc để mở sòng bạc như một phần của khoản đầu tư 500.000 đô la Mỹ. Vào ngày 22 tháng 12 năm 1964, Ủy ban Kiểm soát Trò chơi Nevada đã hoãn việc phê duyệt giấy phép kinh doanh cờ bạc cho đến tháng sau để có thời gian điều tra tình hình tài chính của tập đoàn. Ngày khai trương sòng bạc đã được lên kế hoạch vào đêm giao thừa, trong khi vẫn có khả năng phòng trưng bày và hai nhà hàng mới sẽ mở cửa vào thời điểm đó, nhưng cuối cùng chúng đã không mở cửa. Dự kiến sẽ có tổng cộng 500 người được tuyển dụng tại các cơ sở mới của khu nghỉ dưỡng. Vào tháng 1 năm 1965, Hội đồng Kiểm soát Trò chơi đã xem xét yêu cầu cấp giấy phép kinh doanh cờ bạc, nhưng đồng ý với yêu cầu của khách sạn về việc trì hoãn việc phê duyệt thêm 30 ngày để các thành viên trong tập đoàn có thể giải quyết các thỏa thuận tài chính. Vào thời điểm đó, tập đoàn bao gồm 18 người với tổng số vốn đầu tư là 800.000 đô la Mỹ. Vào tháng 2 năm 1965, khi Hội đồng Kiểm soát Trò chơi đang xem xét việc cấp giấy phép kinh doanh cờ bạc, khách sạn đã đệ trình nhiều thay đổi về tập đoàn, bao gồm việc tăng tỷ lệ sở hữu của Parker từ 8% lên 20%. Hội đồng Kiểm soát Trò chơi đã hoãn việc phê duyệt giấy phép kinh doanh cờ bạc cho đến tháng sau. Yêu cầu cấp giấy phép kinh doanh cờ bạc đã được rút lại vào tháng 3 năm 1965 để có thêm thời gian tổ chức lại tập đoàn. Cuối tháng đó, Kings Crown Tallyho Inn Incorporated, Equitable Real Estate Investment Trust và Fidelity Real Estate Investment Trust đã đệ đơn kiện yêu cầu loại bỏ những người thuê hiện tại của khách sạn vì đã không trả 632.000 đô la tiền thuê và các khoản thanh toán khác. Các công ty tuyên bố rằng các nhóm khác quan tâm đến việc tiếp quản khu nghỉ dưỡng ngay khi những người thuê, bao gồm Chuck Luftig và Edward Nealis, có thể bị loại bỏ. Dịch vụ điện thoại đến khách sạn đã bị cắt vào tháng 4 năm 1965 do các hóa đơn điện thoại chưa thanh toán từ tháng 1. Tất cả 50 khách không thường trú được yêu cầu rời khách sạn. Luftig và Nealis đã bị loại bỏ khỏi vị trí người thuê vào cuối tháng, sau khi một thẩm phán ra phán quyết rằng khách sạn phải được trả lại cho Kings Crown. Tháng sau, Luftig và Nealis yêu cầu bồi thường 3,3 triệu đô la, cáo buộc Kings Crown đã không hoàn thành các cải thiện cần thiết cho khách sạn trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1964 đến tháng 1 năm 1965, dẫn đến thiệt hại tài chính. Aladdin (1966–1998) phải|nhỏ|Chiếc đèn Aladdin ban đầu vào năm 2008, hiện là một phần của Bảo tàng Neon Vào ngày 1 tháng 1 năm 1966, Milton Prell đã đồng ý mua lại King's Crown Tallyho, thuộc sở hữu của ba quỹ tín thác do anh em nhà Cook ở Indiana giám sát. Prell đồng ý mua khu nghỉ dưỡng với giá 10 triệu đô la Mỹ, sẽ được trả theo từng tháng. Milton Prell đã công bố kế hoạch loại bỏ chủ đề Anh cũ và mở lại khu nghỉ dưỡng với tên gọi Aladdin theo chủ đề phương Đông vào ngày 16 tháng 4 sau một cuộc cải tạo rộng rãi trị giá 3 triệu đô la Mỹ. Prell cũng có kế hoạch xây dựng một tòa khách sạn bổ sung 40 tầng trị giá 20 triệu đô la Mỹ với 600 phòng. Việc xây dựng tòa nhà cao tầng dự kiến ​​sẽ bắt đầu vào cuối năm. Martin Stern Jr. là kiến trúc sư cho dự án Aladdin, trong khi R. C. Johnson and Associates là nhà thầu và được thuê để xây dựng các cơ sở mới và cải tạo các cấu trúc hiện có. Kế hoạch cải tạo bao gồm việc tu sửa phòng trưng bày và phòng chờ, cũng như sòng bạc và mặt tiền của khách sạn. Thang máy và thang cuốn cũng được lắp đặt tại hai lối vào chính phía trước của khách sạn. Các cánh phòng theo chủ đề Anh ban đầu được giữ lại, nhưng được nhận chủ đề Nghìn lẻ một đêm cùng với phần còn lại của khu nghỉ dưỡng. Aladdin được đặt tên theo nhân vật cùng tên. Hai tuần sau khi Prell tiếp quản khách sạn, ngày khai trương mới là ngày 1 tháng 4 đã được công bố do quá trình cải tạo diễn ra nhanh chóng, trong khi việc xây dựng tòa nhà cao tầng dự kiến ​​sẽ bắt đầu vào mùa thu. Cuối tháng đó, Prell đã yêu cầu cấp giấy phép cờ bạc để vận hành 27 trò chơi trên bàn và 350 máy đánh bạc, với hoạt động của sòng bạc được tài trợ với chi phí 400.000 đô la thông qua Prell và các đối tác của ông, Gil Gilbert và Sidney Krystal. Prell sở hữu 20% cổ phần trong công ty khách sạn, trong khi Gilberts, phó chủ tịch công ty, nắm giữ 5% và Krystal, thư ký kiêm thủ quỹ, sở hữu 7%. Một nhóm lớn các nhà đầu tư sở hữu số cổ phiếu còn lại. Prell đã bổ nhiệm Joe Rollo và Bernie Richards, cả hai đều đến từ Beverly Hills, làm giám đốc giải trí và giám đốc dàn nhạc tương ứng. Ủy ban Cờ bạc đã khuyến nghị phê duyệt yêu cầu cấp giấy phép cờ bạc của Prell vào tháng 2 năm 1966. Prell đã được phê duyệt vào tháng sau cho giấy phép cờ bạc và rượu, với sự chấp thuận vận hành 351 máy đánh bạc và 29 trò chơi trên bàn. Mở cửa và thay đổi quyền sở hữu Khu nghỉ dưỡng đã khai trương với tên Milton Prell's Aladdin vào nửa đêm ngày 1 tháng 4 năm 1966, trở thành khu nghỉ dưỡng lớn đầu tiên mở cửa trên Las Vegas Strip trong vòng chín năm. Aladdin bao gồm sòng bạc lớn nhất trên Las Vegas Strip và rạp hát Bagdad 500 chỗ. Những người có mặt tại lễ khai trương bao gồm Prell và vợ ông, cũng như Chủ tịch Ủy ban Quận William H. Briare, Thị trưởng Las Vegas Oran K. Gragson, và nhà xuất bản Las Vegas Sun Hank Greenspun. Aladdin, tọa lạc trên diện tích 35 mẫu Anh (14 ha), bao gồm một sân golf và năm nhà hàng. Một tuần sau khi khai trương, biển hiệu cho sòng bạc Dunes đã chào đón Aladdin và chúc khu nghỉ dưỡng mới "may mắn". Aladdin được coi là một trong những khu nghỉ dưỡng sang trọng nhất trên Las Vegas Strip, mặc dù lợi nhuận thường thấp. Xây dựng phần thêm của khách sạn cao tầng được lên lịch bắt đầu vào tháng 10 năm 1966. Tháng 9 năm 1966, chín người, bao gồm con gái của Prell, Sheila, đã được chấp thuận đầu tư 287.500 đô la để sở hữu 11,5% cổ phần của Aladdin. Vào cuối năm 1966, Prell ngừng thanh toán cho các quỹ tín thác, nói rằng ông không đủ khả năng chi trả giá bán tổng thể 10 triệu đô la. Các quỹ tín thác đã đồng ý giảm giá bán xuống còn 5 triệu đô la, và việc Prell mua tài sản này đã hoàn thành vào ngày 9 tháng 2 năm 1967. Prell Hotel Corporation là chủ sở hữu mới. Tháng 5 năm 1967, Aladdin đã tổ chức đám cưới của Elvis và Priscilla Presley. Năm 1968, MK Investment Corporation đã đưa ra một lời đề nghị mua lại Aladdin không thành công. Việc cải tạo trị giá tổng cộng 750.000 đô la đã được hoàn thành vào tháng 8 năm 1969, bao gồm việc biến Sinbad Lounge thành một không gian kín và được san phẳng trên sàn sòng bạc với họa tiết Ả Rập. Năm 1969, Parvin Dohrmann Corporation tiếp quản Aladdin và công ty được đổi tên thành Recrion Corporation. Vào tháng 2 năm 1971, một nhóm do cư dân Las Vegas Walter Gardner dẫn đầu đã đồng ý mua lại Aladdin với giá 16,5 triệu đô la. Việc bán hàng sẽ được hoàn thành khi chủ sở hữu mới nhận được giấy phép hoạt động sòng bạc của Aladdin. Thỏa thuận giữa Recrion và Gardner yêu cầu việc bán hàng phải được hoàn thành trước ngày 15 tháng 5 năm 1971. Gardner là cựu giám đốc điều hành của Binion's Horseshoe ở trung tâm Las Vegas, và nhóm của ông bao gồm sáu nhà đầu tư không được tiết lộ danh tính. Vào tháng 5 năm 1971, Recrion đã gia hạn thời hạn cho nhóm để huy động tiền để hoàn thành việc mua lại. Thỏa thuận đã bị hủy bỏ sau đó trong tháng sau khi Gardner không thể thực hiện việc mua lại, dẫn đến việc Recrion đệ đơn kiện Gardner đòi bồi thường 250.000 đô la. Đến cuối năm 1971, Recrion đang lên kế hoạch bán Aladdin với giá 5 triệu đô la, nhằm giúp trả nợ cho khu nghỉ dưỡng. Aladdin đã được bán cho Sam Diamond, các chính trị gia ở St. Louis là Peter Webbe và Sorkis Webbe, và luật sư Richard L. Daly ở St. Louis với giá 5 triệu đô la. Các chủ sở hữu mới đã công bố kế hoạch xây dựng Regency Tower, tòa tháp 24 tầng, 800 phòng trị giá 25 triệu đô la, liền kề với Aladdin và dự kiến ​​sẽ mở cửa vào cuối năm 1973. Dưới thời chủ sở hữu mới, một cuộc cải tạo trị giá 60 triệu đô la đã được thực hiện, bao gồm việc bổ sung một tòa tháp 17 tầng và Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật 7.500 chỗ ngồi mới thay thế sân golf, vốn vượt ngân sách 4 triệu đô la. Việc xây dựng "Tháp Hoàng gia" 19 tầng bắt đầu vào tháng 5 năm 1975. Tòa tháp được thiết kế bởi Lee Linton và được xây dựng bởi Tập đoàn Del E. Webb. Tòa tháp mở cửa vào ngày 1 tháng 6 năm 1976. Tháng 8 năm 1979, một số cá nhân đã bị bồi thẩm đoàn liên bang Detroit kết tội âm mưu cho phép các chủ sở hữu ẩn danh kiểm soát khu nghỉ dưỡng, và sau đó Ủy ban Trò chơi Nevada đã đóng cửa khách sạn. Khu nghỉ dưỡng đã được bán cho Wayne Newton và Ed Torres vào năm 1980 với giá 85 triệu đô la, từ chối lời đề nghị của diễn viên hài Johnny Carson. Newton đã bán cổ phần của mình cho Torres 21 tháng sau đó. Newton đã kiện NBC, người đã tuyên bố trong các chương trình phát sóng rằng việc mua lại Aladdin của ông có liên quan đến mafia. Ông đã thắng một phán quyết trị giá 22,8 triệu đô la, nhưng đã bị hủy bỏ khi kháng cáo. Vào tháng 2 năm 1984, Aladdin đã nộp đơn xin phá sản theo Chương 11. Năm 1986, doanh nhân Nhật Bản Yasuda Ginji đã mua lại Aladdin từ tình trạng phá sản với giá 54 triệu đô la. Yasuda đã chi thêm 35 triệu đô la để cải tạo khu nghỉ dưỡng. Yasuda đã bị các cơ quan quản lý của tiểu bang loại bỏ tư cách điều hành sòng bạc vào tháng 9 năm 1988. Yasuda đã nộp đơn xin phá sản theo Chương 11 cho khu nghỉ dưỡng vào tháng 10 năm 1989 và qua đời hai tháng sau đó. Tòa nhà đã được công khai rao bán vào năm 1990, sau nhiều tháng cố gắng tìm kiếm người mua tư nhân không thành công. Tập đoàn Bell Atlantic-Tricon Leasing Corporation có trụ sở tại New Jersey đã mua lại khu nghỉ dưỡng từ Ginji Corporation sau khi phá sản vào năm 1991. Cùng năm đó, Bell Atlantic-Tricon đã rao bán tài sản này với giá tối thiểu là 44 triệu đô la. Vào tháng 1 năm 1994, doanh nhân Donald Trump đã cân nhắc việc mua lại Aladdin với giá 51 triệu đô la, mặc dù Bell Atlantic-Tricon đã từ chối bán tài sản này với giá dưới 60 triệu đô la. Trump quyết định không mua lại Aladdin vì ông cảm thấy giá quá cao. Sự quan tâm đến tài sản này đã tăng lên sau thông tin về việc Trump có khả năng mua lại, với sự xuất hiện của một số người mua tiềm năng. Tại thời điểm đó, khu nghỉ dưỡng bao gồm một khách sạn 1.000 phòng và một sòng bạc rộng 37.000 feet vuông. Cuối năm 1994, Jack Sommer, một nhà phát triển bất động sản ở Las Vegas và Sommer Family Trust đã mua lại khách sạn. Sommer Family Trust sở hữu Aladdin thông qua Aladdin Gaming Corporation - công ty cũng điều hành khu nghỉ dưỡng - và Aladdin Holdings LLC. Một cặp chim ưng peregrine nguy cấp đã làm tổ trên tháp khách sạn vào giữa những năm 1990. Vào tháng 5 năm 1996, Ủy ban Quận Clark đã phê duyệt kế hoạch cải tạo và mở rộng trị giá 600 triệu đô la cho Aladdin, khi đó có 1.100 phòng khách sạn. Sommer và quận đã dành sáu tháng để làm việc trên thiết kế của dự án, dự án sẽ giữ lại tháp khách sạn và nhà hát ban đầu. Việc mở rộng sẽ bao gồm bốn tháp khách sạn mới, trong đó có tòa tháp trung tâm hình chữ nhật cao 400 feet. Các bổ sung khác sẽ bao gồm một khu chung cư nghỉ dưỡng có 256 phòng, một khách sạn-sòng bạc có 300 phòng và một trung tâm mua sắm sẽ được đồng quản lý bởi Eddie DeBartolo. Khách sạn sẽ tiếp tục hoạt động trong thời gian dự án mở rộng, dự kiến ​​sẽ kéo dài từ 24 đến 30 tháng. Vào ngày 6 tháng 12 năm 1996, ban nhạc rock psychedelic Mỹ Phish đã biểu diễn tại Aladdin, đánh dấu sự xuất hiện lần đầu tiên ở Las Vegas của ban nhạc. Buổi biểu diễn cuối cùng đã được phát hành dưới dạng CD/DVD có tựa đề Vegas 96. Buổi hòa nhạc có sự xuất hiện của khách mời là các thành viên của ban nhạc Primus và một nhóm người giả dạng Elvis. Vào tháng 1 năm 1997, Aladdin Gaming Corporation đã thông báo rằng London Clubs International sẽ đầu tư 50 triệu đô la để sở hữu 25% cổ phần của khu nghỉ dưỡng Aladdin. London Clubs có kế hoạch bổ sung một cơ sở chơi game sang trọng cho Aladdin, nhằm thu hút những người chơi có số tiền đặt cược lớn. Cơ sở mới sẽ bao gồm 30 bàn chơi game và 100 máy đánh bạc. Nó sẽ là một phần của dự án cải tạo và mở rộng hai năm, dự kiến ​​sẽ có chi phí 750 triệu đô la và được lên kế hoạch bắt đầu vào cuối năm 1997. Cơ sở chơi game mới sẽ có thiết kế theo phong cách châu Âu. Aladdin đã gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các khu nghỉ dưỡng lớn hơn trên Las Vegas Strip. Vào tháng 3 năm 1997, Aladdin Holdings đã thông báo rằng khu nghỉ dưỡng sẽ bổ sung một trung tâm mua sắm rộng 450.000 feet vuông (42.000 m2) như một phần của dự án mở rộng. Nó sẽ có chủ đề Ả Rập của Aladdin và dự kiến ​​sẽ mở cửa vào năm 1999, với TrizecHahn Corporation phụ trách việc xây dựng, cho thuê và vận hành. Trung tâm mua sắm, được gọi là Desert Passage, dự kiến ​​sẽ có chi phí 210 triệu đô la. Đối với dự án mở rộng, Jack Sommer đã cân nhắc nhiều lựa chọn khác nhau, bao gồm việc đóng cửa khu nghỉ dưỡng để cải tạo và phá bỏ hoàn toàn khu nghỉ dưỡng để xây dựng một khu nghỉ dưỡng mới. Đóng cửa và phá hủy Vào ngày 25 tháng 9 năm 1997, có thông báo rằng khách sạn Aladdin sẽ đóng cửa sau hai tháng và cuối cùng sẽ bị phá hủy để nhường chỗ cho một khu nghỉ dưỡng Aladdin mới lớn gấp ba lần khu nghỉ dưỡng ban đầu và sẽ bao gồm trung tâm thương mại Desert Passage. Khách sạn Aladdin có 1.485 nhân viên, trong khi khu nghỉ dưỡng mới sẽ sử dụng hơn 7.000 người. Nhà hát Aladdin dành cho Nghệ thuật Biểu diễn với 7.000 chỗ ngồi sẽ được giữ lại và hiện đại hóa cho khu nghỉ dưỡng mới. Một trong những buổi biểu diễn cuối cùng tại nhà hát Aladdin là Jane's Addiction. Khách sạn Aladdin đóng cửa lúc 6:00 chiều ngày 25 tháng 11 năm 1997. Ít khách hàng sòng bạc tỏ ra buồn bã về việc đóng cửa. Nhà hát Aladdin đã tổ chức buổi biểu diễn cuối cùng vào tối hôm đó, với một chương trình của Mötley Crüe. Buổi biểu diễn trở nên hỗn loạn khi ban nhạc khuyến khích khán giả đứng dậy, khi một người cố gắng lấy chiếc mũ của tay guitar Mick Mars, vô tình đánh ngã anh ta. Việc phá dỡ dự kiến bắt đầu vào tháng 12 năm 1997, và việc đánh sập tòa tháp khách sạn dự kiến diễn ra vào tháng 2 năm 1998. Porte cochere của Aladdin có 9.230 bóng đèn, tổng chi phí thắp sáng trong năm 1997 là 23.499 đô la. Vào tháng 2 năm 1998, Aladdin Gaming tuyên bố rằng họ đã tài trợ cho kế hoạch xây dựng khu nghỉ dưỡng Aladdin mới, dự kiến chi phí 826 triệu đô la. National Content Liquidators đã tiến hành bán thanh lý tại chỗ khách sạn Aladdin bắt đầu từ ngày 6 tháng 3 năm 1998. Vào ngày 27 tháng 4 năm 1998, tòa tháp khách sạn đã bị phá hủy bằng thuốc nổ lúc 7:27 chiều để nhường chỗ cho việc xây dựng khu nghỉ dưỡng Aladdin mới. Đây là khu nghỉ dưỡng thứ năm ở Las Vegas bị phá hủy bằng thuốc nổ. Ước tính có khoảng 20.000 người đã đến xem vụ nổ từ các khu vực gần đó. Các giám đốc của Aladdin đã dựng một chiếc lều 1.000 người gần khách sạn Aladdin và tính phí 250 đô la một vé để mọi người xem vụ phá hủy bằng thuốc nổ từ bên trong lều, với số tiền thu được được quyên góp cho Quỹ Make-A-Wish của miền nam Nevada. Biển hiệu của khu nghỉ dưỡng cũ có dòng chữ: "Từ tro bụi, Aladdin trỗi dậy một lần nữa. Gặp lại bạn vào năm 2000." Khu nghỉ dưỡng mới (2000-nay) Khu nghỉ dưỡng Aladdin mới khai trương vào tháng 8 năm 2000. Khu nghỉ dưỡng gặp phải các vấn đề tài chính và nộp đơn xin bảo hộ phá sản theo Chương 11 vào tháng 9 năm 2001. Vào tháng 2 năm 2002, Aladdin Gaming đang tìm kiếm những người mua tiềm năng. Khu nghỉ dưỡng đã được bán trong thủ tục phá sản vào ngày 20 tháng 6 năm 2003 cho một tập đoàn của Planet Hollywood và Starwood. Sau khi được cải tạo, khu nghỉ dưỡng bắt đầu hoạt động vào năm 2007 dưới tên "Planet Hollywood". Lịch sử điện ảnh Robert Hirsch, một nhà tư vấn địa điểm ở Las Vegas và cựu giám đốc của Phòng Phân phối Điện ảnh Nevada, cho biết các đoàn làm phim và truyền hình "luôn yêu thích cổng chính" của Aladdin, nhưng họ "không thích phần còn lại của nơi này." Sòng bạc của Aladdin được giới thiệu đáng kể trong bộ phim Going in Style năm 1979 và bộ phim Heat năm 1986. Cổng chính và sòng bạc xuất hiện trong bộ phim Best of the Best II năm 1993, trong khi nhà hát xuất hiện trong bộ phim tài liệu Dancing for Dollars năm 1997. Behind Closed Doors, một loạt phim tài liệu, đã quay cảnh chuẩn bị phá dỡ tòa tháp khách sạn trước khi nó bị đánh sập. Loạt phim cũng đặt máy quay bên trong tòa tháp để cung cấp một cái nhìn bên trong tòa nhà trong quá trình đánh sập. Aladdin cũng xuất hiện trong một tập phim năm 1998 của Ohh Nooo! Mr. Bill Presents, trong đó nhân vật ông Bill biểu diễn tại khu nghỉ mát. Cảnh quay vụ đánh sập được sử dụng trong Gambling, Gods and LSD (2002), trong phần kết thúc của bộ phim The Cooler năm 2003 và trong bộ phim The Misfits năm 2021. Chú thích Khách sạn tại Hoa Kỳ Las Vegas Strip
21,423
19832818
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20h%C3%A0ng%20xoay
Nhà hàng xoay
Nhà hàng xoay thường là không gian ăn uống của nhà hàng dạng tháp được thiết kế nằm trên đỉnh một bệ xoay hình tròn rộng hoạt động như một bàn xoay lớn. Tòa nhà vẫn đứng yên và thực khách được đưa lên sàn quay. Tốc độ quay thay đổi từ một đến ba lần mỗi giờ và cho phép khách hàng có thể ngắm nhìn toàn cảnh mà không cần rời khỏi chỗ ngồi. Những nhà hàng như vậy thường nằm ở tầng trên của khách sạn, tháp truyền thông và tòa nhà chọc trời. Nhà hàng xoay được thiết kế theo dạng cấu trúc hình tròn, với một bệ xoay quanh lõi ở trung tâm. Lõi trung tâm chứa thang máy, nhà bếp hoặc các tính năng khác của tòa nhà. Bản thân nhà hàng nằm trên một bệ thép mỏng, với bệ nằm trên hàng loạt bánh xe nối với sàn của công trình. Ngoài ra, một số thiết kế, chẳng hạn như thiết kế ở Memphis, Tennessee, có bệ gắn trên lốp xe. Một động cơ làm quay nhà hàng với tốc độ dưới một mã lực. Tốc độ quay được ghi nhận là khác nhau, tùy thuộc vào sở thích. Người ta tin rằng Hoàng đế Nero có một phòng ăn xoay bên trong cung điện Domus Aurea của ông trên Đồi Palatine với tầm nhìn tuyệt đẹp ra Công trường La Mã và Đấu trường La Mã. Giới khảo cổ đã khai quật được thứ mà họ tin là bằng chứng về phòng ăn như vậy vào năm 2009.
1,205
19832820
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20h%C3%A0ng%20n%E1%BB%95i
Nhà hàng nổi
Nhà hàng nổi là một con tàu, thường là sà lan hoặc tàu lớn bằng thép, được sử dụng làm nhà hàng trên mặt nước. Nhà hàng Jumbo Kingdom trước đây tọa lạc tại Aberdeen ở Hồng Kông, từng là nhà hàng nổi lớn nhất thế giới cho đến khi nó chìm trên biển vào năm 2022. Đôi khi những con tàu đã nghỉ hưu vẫn được chủ cũ đem cho thuê lần thứ hai để cải tạo làm nhà hàng nổi.
364
19832821
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kem%20tuy%E1%BA%BFt
Kem tuyết
Kem tuyết () có thể là một trong hai món tráng miệng riêng biệt. -Món tráng miệng bao gồm kem tươi có thêm hương liệu. -Món tráng miệng mà tuyết được trộn với chất lỏng có đường làm từ sữa để làm kem thay thế. Đây còn được gọi là kem tuyết. Món tráng miệng làm từ kem Kem tươi có hoặc không có hương liệu được gọi là "kem tuyết" hoặc "tuyết sữa" (neve di latte, neige de lait) cho đến thế kỷ 17. Lòng trắng trứng đánh bông đôi khi cũng được thêm vào. Có những công thức nấu ăn kiểu Anh và lục địa châu Âu có niên đại từ thế kỷ 16. Món tráng miệng làm từ tuyết Kỹ thuật sử dụng tuyết làm nguyên liệu chính trong món tráng miệng đã rất cũ. Các thành phần phổ biến cho loại này là thành phần có nguồn gốc từ sữa, đường và chất tạo hương vị. Khi thêm một lượng nhỏ chất lỏng làm từ sữa và chất tạo hương vị (tương tự như thành phần kem) vào tuyết sạch, tuyết sẽ tan chảy và đông lại thành một loại kem thay thế đơn giản. Công thức nấu món "tuyết" khác Táo tuyết, với táo xay nhuyễn được thêm vào công thức cơ bản, được dùng nóng phổ biến vào thế kỷ 17 trong khi phiên bản hiện đại hơn được ăn nguội. Thành phần nước ép trái cây cũng được sử dụng trong tuyết chanh và cam. Có một phiên bản tiếng Nga được gọi là air pie, gồm có lòng trắng trứng, đường và trái cây xay nhuyễn, đánh bông và dùng nóng. Tuyết mùa hè nổi tiếng dưới dạng có thành phần trái cây, lòng trắng trứng và rượu. Quả cầu tuyết có thể là một loạt các món tráng miệng. Chúng thường không liên quan đến món tráng miệng kem tuyết. Một trong số đó, thường được gọi là slush, được làm từ đá và sirô trái cây, có thể được coi là có liên quan đến kem tuyết. Tuyết ốc quế là một món tráng miệng đông lạnh được làm từ đá nghiền hoặc đá bào, có hương vị sirô có màu sắc rực rỡ, thường có hương vị trái cây, ăn kèm vỏ ốc quế hoặc cốc giấy.
1,792
19832822
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kem%20h%C3%A0u
Kem hàu
Kem hàu () là một loại kem có hương vị thơm ngon. Sau khi được ghi lại trong một cuốn sách dạy nấu ăn thế kỷ 19, để rồi bị lãng quên trong hai thế kỷ tiếp theo, hương vị kem này mới được xuất đầu lộ diện tại một số lễ hội về hàu thế kỷ 21. Lịch sử Nguồn tư liệu lịch sử duy nhất viết về kem hàu được tìm thấy trong cuốn sách dạy nấu ăn của Mary Randolph có nhan đề The Virginia Housewife, xuất bản năm 1824. Trái ngược với nhiều nguồn tin khác nhau trong thế kỷ 21, kem hàu không được phục vụ trong Lễ Tạ ơn đầu tiên, cũng không phải là món ăn yêu thích của George Washington, cũng như không được Dolley Madison thưởng thức trong Nhà Trắng và còn không được Mark Twain nhắc đến trong cuốn tiểu thuyết Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer của ông. Thế kỷ 21 Theo đầu bếp kiêm chủ nhà hàng José Andrés, kem hàu được làm bằng cách "làm nóng nhẹ hàu và kem", trước khi đông lạnh sản phẩm. Nhà sử học thực phẩm Robert Brantley mô tả món kem hàu của thập niên 1800 là “[v]ề cơ bản...súp hàu đông lạnh. Họ thưởng thức nó mà không cần thêm đường." Kem hàu có hương vị thơm ngon trái ngược với vị ngọt. Lorraine Eaton của tờ The Virginian-Pilot đã viết rằng một trong những đồng nghiệp của cô tại nơi làm việc "gần như nôn nao" sau khi nếm thử món kem hàu tự làm của Eaton; những người khác lại có những lời chỉ trích tích cực về hương vị kem này. Hai loại kem hàu đã được giới thiệu tại Lễ hội Hàu Colchester ở Colchester, Essex vào tháng 9 năm 2012. Kem "hàu và gừng" được phục vụ tại Lễ hội Hàu lần thứ 23 ở Phố Chính Arcata vào tháng 6 năm 2013.
1,541
19832827
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fujimori%20Riho
Fujimori Riho
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti NAX Promotion (New Actor eXperience). Sự nghiệp Cô ra mắt ngành phim khiêu dâm vào năm 2014. Sau khi tạm dừng hoạt động một thời gian, cô đã hoàn toàn trở lại làm nữ diễn viên khiêu dâm. Cô đã trở lại ngành dưới tên Fujimori Riho vào năm 2019. Công ti chủ quản tại thời điểm đó là All Pro. 30/11/2021, cô đã được đề cử bởi AV King và đã nhận giải Valuable Actress of AV King của Giải thưởng truyền hình phim khiêu dâm Sky PerfecTV!. 2/5/2022, cô trở thành nữ diễn viên độc quyền của nhãn phim SOD Rei của SOD Create. 9/5/2023, cô đã trở nên nổi tiếng khi phát biểu về các sản phẩm với chữ kí của chính cô được bán lại rằng "Những người bán chúng là đồ ngốc" và "Những người mua chúng là đồ ngốc". 1/9/2023, cô trở thành nữ diễn viên độc quyền của hãng Honnaka và OPPAI với công ti chủ quản là NAX Promotion (New Actor eXperience). 4/10/2023, số người theo dõi cô trên chỉ trên 1 tài khoản mạng xã hội đạt 700 nghìn.
982
19832847
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ACnh%20y%C3%AAu%20di%E1%BB%87u%20k%E1%BB%B3
Tình yêu diệu kỳ
Tình yêu diệu kỳ có thể là: -Tình yêu diệu kỳ, phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2016. -Tình yêu diệu kỳ, phim truyền hình Ấn Độ ra mắt năm 2009.
148
19832848
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90am%20m%C3%AA%20nghi%E1%BB%87t%20ng%C3%A3
Đam mê nghiệt ngã
Đam mê nghiệt ngã có thể là: -Đam mê nghiệt ngã, phim truyền hình Colombia ra mắt năm 2003. -Đam mê nghiệt ngã, phim truyền hình Việt Nam ra mắt năm 2014.
154
19832856
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADn%20ng%C6%B0%E1%BB%A1ng%20s%C3%B9ng%20b%C3%A1i%20t%E1%BB%B1%20nhi%C3%AAn
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (Nature worship/Naturism/Physiolatry) là bất kỳ thực hành tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng và sùng đạo nào tập trung vào việc thờ cúng các linh hồn thiên nhiên được coi là thế lực đứng đằng sau các hiện tượng tự nhiên có thể nhìn thấy được trong thiên nhiên. Một vị thần tự nhiên có thể là đấng cai quản về thiên nhiên, một địa điểm, một sinh cảnh, sinh quyển, thiên hà hoặc vũ trụ. Sự sùng bái tự nhiên thường được coi là nguồn gốc nguyên thủy của tín ngưỡng tôn giáo hiện đại và có thể được nhận thấy trong thuyết phiếm thần, thuyết toàn thần, thuyết thần linh, thuyết đa thần, thuyết vật linh, Đạo giáo, thuyết vật tổ (Tôtem giáo), Ấn Độ giáo, Shaman giáo (pháp sư), một số thuyết hữu thần và ngoại giáo bao gồm cả Wicca. Điểm chung của hầu hết các hình thức tôn thờ tự nhiên là sự tập trung tinh thần vào sự kết nối và ảnh hưởng của cá nhân đối với một số khía cạnh của thế giới tự nhiên và sự tôn kính đối với thiên nhiên. Do sự ngưỡng mộ thiên nhiên bao la bất tận, các tác phẩm của Edmund Spenser, Anthony Ashley-Cooper và Carl Linnaeus được coi là sự sùng bái tự nhiên. Nhà sử học người Anh là Ronald Hutton đã chỉ trích sự cổ hủ của việc thờ cúng thiên nhiên ít nhất là từ năm 1998 cho đến nay. Ông đã lập luận rằng các vị thần của vùng Địa Trung Hải Cổ đại không phải là các vị thần Thiên nhiên dưới bất kỳ hình thức nào; đúng hơn, họ là những vị thần của "nền văn minh và hoạt động của con người", trong khi "nữ thần Mẹ Trái đất" được ông mô tả chỉ là những nhân vật văn học chứ không phải các vị thần, bởi vì ông tin rằng họ không có bất kỳ ngôi đền nào dành riêng cho họ hoặc một chức tư tế để phụng vụ họ. Ông phản đối mạnh mẽ quan điểm này bằng cách phân biệt những người ngoại giáo cổ đại với những người theo Neopagan và người theo tôn giáo Wicca, những người tự nhận là những người tôn thờ thiên nhiên như một thành phần thiết yếu trong đức tin của họ, điều mà ông tin là không giống bất kỳ điều gì khác trong lịch sử được ghi chép lại. Mặc dù Ben Whitmore đã bị những người phái Wicca ở New Zealand buộc tội vì đã tước quyền bầu cử của những người Neopagan "những người cảm thấy có mối quan hệ họ hàng và mối liên hệ" với các vị thần và những người ngoại đạo của Thế giới Cổ đại. Giáo sư Hutton đã trình bày lại những quan điểm này (hầu như nguyên văn) trong ấn bản thứ hai của cuốn sách của ông có tựa đề Chiến thắng của thần trăng (Triumph of the Moon). Các dạng -Thờ bầu trời: Tôn thờ các thực thể trên bầu trời như biểu tượng Mặt Trời và sùng bái các vị thần gắn liền với bầu trời (thờ Thần Mặt trời, thờ thần trăng/Nguyệt thần). Bầu trời gắn liền với Thiên giới, Cõi trời, Cõi trên, Thiên thượng, Thiên đường nên bầu trời trên cao là nơi cư ngụ của các vị thần tối thượng (Thượng đế, Ngọc hoàng). -Thờ các vì sao hay thần học thiên văn (Astrotheology), thần bí vũ trụ còn gọi là thờ cúng vũ trụ hoặc ngôi sao là sự tôn thờ các ngôi sao (riêng lẻ hoặc cùng nhau như bầu trời đêm), các hành tinh và các thiên thể khác như các vị thần, hoặc thiên thần với các thiên thể. -Thờ sấm sét: Sấm sét là hiện tượng tự nhiên khiến con người kinh sợ từ đó nảy sinh nhu cầu thờ thần sấm sét (Lôi thần) để cầu an trong nhiều nền văn hóa. -Thờ lửa: Thờ phượng hoặc thần thánh hóa ngọn lửa (ví dụ như Bái hỏa giáo) -Thờ thần gió: Thờ phượng các hiện tượng như gió, bão tố, lốc... -Thờ thần nước (thủy thần): Thờ cúng các thực thể là các vị thần nước, thủy thần, hải thần (hải vương), các nữ thần nước, các vị thần sông, thần giếng, Thần Mưa. Một trong những tín ngưỡng đó là tục thờ cúng Long vương (Vua Thủy tề). -Thờ núi (山岳信仰, Sangaku Shinkō) là tín ngưỡng coi núi là chốn linh thiêng (núi thiêng) để thờ cúng, trên núi có các vị thần rừng (Sơn thần), thần hổ (Sơn quân/Chúa sơn lâm) -Thờ cây: Thờ các vị thần cây (mộc thần) trên rừng thiêng, nhiều nơi còn có tục thờ các nữ thần cây. -Thờ thần đất: Thờ các vị thần đất, thổ thần đất đai, thổ công, thổ địa, môn thần là các thực thể cai quản các vùng đất, địa vật, địa phương. -Thờ thiên nhiên hay Mẹ Thiên Nhiên: Là những tôn giáo lấy trái đất làm trung tâm và sùng bái, tôn thờ thiên nhiên như là một hệ thống tôn giáo dựa trên sự tôn kính các hiện tượng tự nhiên ví dụng như thờ nữ thần Pachamama của vùng Amazon được mệnh danh là "Nữ thần trái đất". -Tín ngưỡng thờ đá thuộc tín ngưỡng thờ thần tự nhiên, là một trong những hình thức tín ngưỡng dân gian sớm nhất xuất hiện ở Việt Nam, người ta sẽ thờ những hòn đá linh thiêng (Thạch linh). Một số dân tộc còn có tập tục thờ hòn đá (hòn đá vía) nhưng nó cũng dẫn đến những biểu hiện mê tín dị đoan. -Thờ Vật tổ (Tôtem giáo): Vật tổ là biểu tượng nguồn gốc của một nhóm người, tộc người và được thờ cúng như tổ tiên của mình. -Tín ngưỡng thờ động vật (Tục thờ thú): Là sự sùng bái tôn thờ các loài vật với vai trò là đại diện cho thiên nhiên như Tục thờ bò, tục thờ hổ, tục thờ rắn, tục thờ chó, tục thờ ngựa, tục thờ gấu, tục thờ cá Ông, tục thờ côn trùng. Tôn giáo hóa Trong bối cảnh phương Tây, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên sau này đã được tôn giáo hóa cao độ với các khái niệm như Tôn giáo tự nhiên (Natural religion) thường có nghĩa là "tôn giáo của tự nhiên" trong đó Thiên Chúa, tâm hồn, các linh hồn và mọi vật thể siêu nhiên được coi là một phần của tự nhiên và không tách rời khỏi nó. Ngược lại, nó cũng được sử dụng trong triết học để mô tả một số khía cạnh của tôn giáo được cho là có thể biết được ngoài sự mặc khải thiêng liêng chỉ thông qua logic và lý trí, ví dụ, sự tồn tại của Thần thông qua động cơ vô động lực, tác nhân đầu tiên của vũ trụ. Tôn giáo tự nhiên không chỉ là nền tảng của các tôn giáo độc thần như Do Thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo mà còn khác biệt với chúng, các khía cạnh của tôn giáo tự nhiên được tìm thấy phổ biến ở tất cả các dân tộc, thường dưới những hình thức như đạo Shaman giáo và thuyết vật linh. Chúng vẫn được thực hành ở nhiều nơi trên thế giới, như các tôn giáo trong xã hội người Mỹ bản địa được coi là sở hữu một số khía cạnh của tôn giáo tự nhiên. Phong trào Tôn giáo tự nhiên (Nature religion) là một phong trào tôn giáo tin rằng thiên nhiên và thế giới tự nhiên là hiện thân của thần thánh, sự thiêng liêng hoặc sức mạnh tâm linh. Tôn giáo tự nhiên bao gồm các tôn giáo bản địa được thực hành ở nhiều nơi trên thế giới trong các nền văn hóa coi môi trường là nơi chứa đựng các linh hồn và các thực thể thiêng liêng khác. Nó cũng bao gồm các tín ngưỡng Pagan hiện đại, chủ yếu tập trung ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Thuật ngữ "tôn giáo tự nhiên" lần đầu tiên được học giả nghiên cứu tôn giáo người Mỹ là Catherine Albanese đặt ra, bà này đã sử dụng nó trong tác phẩm xuất bản năm 1991 có tựa đề: Tôn giáo tự nhiên ở Mỹ: Từ người da đỏ Algonkian đến thời đại mới (Nature Religion in America: From the Algonkian Indians to the New Age) và sau đó bà tiếp tục sử dụng nó trong môn học khác. Sau khi Albanese phát triển thuật ngữ này, nó đã được các học giả khác làm việc trong lĩnh vực này sử dụng. Chủ nghĩa tự nhiên tôn giáo (Religious naturalism) là một khuôn khổ cho định hướng tôn giáo trong đó thế giới quan theo chủ nghĩa tự nhiên được sử dụng để giải đáp các loại câu hỏi và nguyện vọng vốn là một phần của nhiều tôn giáo. Nó được mô tả là "một góc nhìn tìm thấy ý nghĩa tôn giáo trong thế giới tự nhiên". Chủ nghĩa tự nhiên tôn giáo có thể được coi là một triết lý, về mặt trí tuệ, và nó có thể được coi là một phần hoặc là trọng tâm của một định hướng tôn giáo cá nhân. Những người ủng hộ đã tuyên bố rằng nó có thể là một lựa chọn quan trọng cho những người không thể theo đuổi các truyền thống tôn giáo trong đó các sự hiện diện hoặc sự kiện siêu nhiên đóng vai trò nổi bật và nó cung cấp "một tầm nhìn tôn giáo mang tính tinh thần sâu sắc và đầy cảm hứng" đặc biệt phù hợp trong thời đại này thời kỳ khủng hoảng sinh thái. Chủ nghĩa tự nhiên là quan điểm cho rằng thế giới tự nhiên là tất cả những gì tồn tại và các thành phần, nguyên tắc và mối quan hệ của nó là thực tế duy nhất. Tất cả những gì xảy ra đều được coi là do quá trình tự nhiên, không có gì liên quan đến siêu nhiên. Nguyên tắc chính của chủ nghĩa tự nhiên tôn giáo là thế giới quan theo chủ nghĩa tự nhiên có thể đóng vai trò là nền tảng cho định hướng tôn giáo. Việt Nam Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người. Với người Việt sống bằng nghề lúa nước, thì sự gắn bó với tự nhiên lại càng đài lâu và bền chặt. Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực nhận thức là lối tư duy tổng hợp, và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng đa thần. Chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hậu quả trong quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng nữ, và trong tín ngưỡng là tình trạng các nữ thần chiếm ưu thế. Tục thờ Mẫu (đạo Mẫu) đã trở thành một tín ngưỡng Việt Nam điển hình. Các Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước là những nữ thần cai quản các hiện tương tự nhiên thiết thân nhất đối với cuộc sống của người trồng lúa nước. Ở nhiều vùng, Bà Đất (Địa mẫu) và Bà Nước còn tồn tại dưới dạng thần khu vực như Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Sông, Bà Chúa Lạch. Ba bà này còn được thờ chung như một bộ tam tài dưới dạng tín ngưỡng tam phủ cai quản ba vùng trời-đất-nước gồm Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải (âm đọc chệch đi từ chữ Thủy). Các bà Mây-Mưa-Sấm-Chớp cai quản những hiện tượng tự nhiên hết sức quan trọng trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Người Việt còn thờ các hiện tượng tự nhiên khái quát như không gian và thời gian. Thần không gian được hình dựng theo Ngũ hành gồm Ngũ Hành Nương Nương, Ngũ Phương chi thần coi sóc các phương trời, Ngũ Đạo chi thần trông coi các ngả đường. Theo địa chi, người ta thờ thần thời gian là Thập nhị Hành khiển và 12 vị nữ thần này đồng thời có trách nhiệm coi sóc việc sinh nở – đó là Mười hai Bà Mụ. Do xuất phát từ nước có gốc nông nghiệp trồng lúa nước nên tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên thể hiện ở việc thờ động vật, thực vật. Tín ngưỡng Việt Nam thờ các con vật như tục thờ hổ ở Việt Nam, trâu, cóc, chim, rắn, cá sấu, ngựa, chó... các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân của một xã hội nông nghiệp. Thực vật được tôn sùng nhất là cây Lúa được tôn thờ khắp nơi dù là vùng người Viết hay vùng các dân tộc thì đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa, sau đó là các loài cây xuất hiện sớm ở vùng này như cây Cau, cây Đa, cây Dâu, qua Bầu. Trong con người có cái vật chất và cái tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm "linh hồn", và linh hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng. Người Việt và một vài dân tộc Đông Nam Á còn tách linh hồn ra thành hồn và vía. Người Việt cho rằng con người có 3 hồn, nhưng vía thì nam có 7 (ba hồn bảy vía), còn nữ có 9. Hồn vía được người xưa dùng để giải thích các hiện tượng như trẻ con hay đau ốm, hiện tượng ngủ mê, ngất, chết. Trong hồn và vía thì vía phụ thuộc vào thể xác, có người lành vía, người dữ vía, có người yếu vía, người cứng vía. Chú thích
10,882
19832859
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eria%20no%20Kishi
Eria no Kishi
, tạm dịch tiếng Việt: Kỵ sĩ trong vòng cấm là một loạt manga Nhật Bản được viết bởi Igano Hiroaki và minh họa bởi Tsukiyama Kaya. Bộ truyện đã được phát hành trên tạp chí Shōnen của Kodansha, Weekly Shōnen Magazine, từ tháng 4 năm 2006 đến tháng 3 năm 2017, với 57 tập trong các tuyển tập tankōbon. Một phiên bản truyền hình anime gồm 37 tập phim do Shin-Ei Animation sản xuất đã được phát sóng trên TV Asahi từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2012. Cốt truyện Aizawa Kakeru là em trai của Aizawa Suguru, một thần đồng bóng đá thuộc đội tuyển U-15 Nhật Bản. Trước đó, Kakeru từ bỏ vị trí tiền đạo sau một sự cố khiến anh không thể thi đấu bằng chân trái và chuyển sang vị trí quản lý. Sau khi cả hai bị xe tải đâm, Suguru chết và trái tim của anh được ghép cho Kakeru. Với trái tim đó, Kakeru trở lại với bóng đá để thực hiện ước mơ vô địch World Cup của anh trai mình. Nhân vật Aizawa Kakeru (逢沢 駆) Lồng tiếng bởi: Yūko Sanpei Em trai của Suguru. Cậu ấy chơi ở vị trí tiền đạo. Khi còn là học sinh lớp sáu, và sau khi gây thương tích cho người bạn và đồng đội Hibino bằng cách sút bóng mạnh bằng chân trái, anh ấy trở nên cảnh giác khi sử dụng nó, điều này cản trở nghiêm trọng khả năng ghi bàn và đặc biệt là sự tự tin của anh ấy, đến mức anh ấy dường như không thể ghi bàn. Kết quả là, anh ấy bắt đầu chơi ngày càng ít thường xuyên hơn và bắt đầu làm việc nhiều hơn với tư cách trợ lý giám đốc, trước sự bực tức của anh trai anh ấy, át chủ bài Suguru. Tuy nhiên, anh ấy vẫn bí mật tập luyện bóng đá trong công viên hàng đêm.Mọi thứ bắt đầu thay đổi khi người bạn thời thơ ấu của anh, Mishima Nana, trở lại Nhật Bản vào một ngày nọ và trở thành quản lý của đội. Hơn nữa, một người đeo mặt nạ bí ẩn xuất hiện vào một đêm tại công viên và thách anh ta chơi, điều mà họ vẫn làm hàng đêm. Điều này thúc đẩy Kakeru cố gắng một lần nữa với đội, và trong một trận đấu tập, anh ấy là tiền đạo duy nhất có thể theo kịp những đường chuyền bất ngờ và mạnh mẽ của Suguru, nhưng anh ấy không ghi bàn vì sợ sử dụng chân trái. Cảm thấy thất vọng, anh nói với anh trai rằng anh sẽ từ bỏ bóng đá chỉ vài phút trước khi cả hai bị một chiếc xe tải đâm. Sau khi hồi phục sau vụ tai nạn và từ ca ghép tim mà anh ấy nhận được từ anh trai mình như "đường chuyền cuối cùng", Kakeru phát hiện ra rằng anh ấy dường như đã thừa hưởng một số kỹ năng và tính khí của Suguru, và rằng anh ấy có thể sử dụng lại chân trái của mình.Người đeo mặt nạ được tiết lộ là Nana, người đã được Suguru yêu cầu giúp đỡ Kakeru, và cô tiết lộ với anh rằng ca cấy ghép của anh đến từ anh trai anh. Sau khi biết được điều đó và biết được ước mơ của anh trai mình là cả hai đều vô địch World Cup, anh quyết định quay trở lại với bóng đá và biến giấc mơ của anh trai mình thành hiện thực. Aizawa Suguru (逢沢 傑) Lồng tiếng bởi: Fukuyama Jun Kumai Motoko (lúc nhỏ) Anh trai của Kakeru. Suguru là một tiền vệ thiên tài và là đội trưởng đội bóng đá của trường, thậm chí còn góp mặt trong đội U-15 của Nhật Bản. Anh được nhiều người kỳ vọng sẽ gánh vác tương lai của bóng đá thế giới Nhật Bản. Anh nhận thức được tài năng cầu thủ bóng đá của em trai mình và cảm thấy khó chịu vì sự thiếu động lực của Kakeru. Trong manga gợi ý rằng Suguru có thể bằng cách nào đó đã đoán trước được cái chết của chính mình, khi anh ấy bắt đầu gặp ác mộng thường xuyên, kết thúc vào ngày anh ấy qua đời. Sau khi nghe tin anh trai quyết định từ bỏ bóng đá, anh định kể cho anh nghe về giấc mơ tuyệt vời mà anh có vào sáng hôm đó, khi cả hai bị một chiếc xe tải mà tài xế ngủ quên điều khiển. Suguru còn có phần tệ hơn, và rõ ràng là anh ấy không thể giúp được gì nữa. Biết được điều này và Kakeru cũng sẽ cần được ghép tim để sống, các bác sĩ và gia đình quyết định ghép tim của anh ấy cho Kakeru, người theo đó mơ thấy Suguru sẽ cho anh ấy một đường chuyền cuối cùng. Trao trái tim mình cho Kakeru, anh cũng trao cho cậu ước mơ vô địch cúp thế giới. Mishima Nana (美島 奈々) Lồng tiếng bởi: Itō Shizuka Bạn thời thơ ấu của Suguru và Kakeru, biệt danh là Seven. Kể từ khi trở về từ Los Angeles, cô ấy đã trở thành người quản lý, giống như Kakeru. Cô ấy giỏi bóng đá và có quan hệ họ hàng với Kakeru. Nakatsuka Kota (中塚 公太) Lồng tiếng bởi: Shiraishi Minoru Saeki Yusuke (佐伯 祐介) Lồng tiếng bởi: Shingaki Tarusuke Aizawa Mito (逢沢 美都) Lồng tiếng bởi: Shindō Kei Bố của Aizawa Lồng tiếng bởi: Tahara Aruno Mẹ của Aizawa Lồng tiếng bởi: Sakuma Rei Truyền thông Manga Được viết bởi Igano Hiroaki và minh họa bởi Tsukiyama Kaya, The Knight in the Area được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Shōnen Weekly Shōnen Magazine của Kodansha từ ngày 26 tháng 4 năm 2006 đến ngày 29 tháng 3 năm 2017. Kodansha sưu tầm các chương của nó gồm 57 tập tankōbon, phát hành từ ngày 17 tháng 8 năm 2006 đến ngày 17 tháng 5 năm 2017. Anime Một bộ anime truyền hình dài 37 tập , do Shin-Ei Animation sản xuất và Ogura Hirofumi làm đạo diễn, được phát sóng trên TV Asahi từ ngày 7 tháng 1 đến ngày 29 tháng 9 năm 2012. Bài hát chủ đề mở đầu là Higher Ground (ハイヤーグラウンド, "Haiyā Gurundo" ) của "SRS". Bộ phim được Crunchyroll phát sóng đồng thời tại Hoa Kỳ, Canada, Anh Quốc, Ireland, Nam Phi, Úc và New Zealand. Đón nhận Tới tháng 8 năm 2021, manga đã có hơn 13 triệu bản được lưu hành.
5,172
19832873
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B9ng%20H%E1%BA%AFc%20H%E1%BB%95
Sùng Hắc Hổ
Sùng Hắc Hổ ( tiếng Trung :崇黑虎; bính âm : Chóng Hēihǔ ; Hắc Hổ nghĩa đen là hổ đen) là một nhân vật trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc thế kỷ 16 Phong Thần Diễn Nghĩa . Anh là em trai của Sùng Hầu Hổ , Chư Hầu lớn phương Bắc. Truyền thuyết Sùng Hắc Hổ có ngoại hình đặc biệt, thường đội mũ Cửu Vân Đốt Hỏa, đeo thắt lưng ngọc, mặc áo choàng màu đỏ tươi và đeo chuỗi thư vàng. Anh có bộ râu dài màu đỏ và đôi mắt giống như hai chiếc chuông vàng. Anh ta cũng được trang bị hai chiếc rìu vàng, điều này càng làm tăng thêm danh tiếng đáng sợ của anh ta vì có kỹ năng đặc biệt. Trong lần rút lui thứ ba của Sùng Hầu Hổ, Sùng Hắc Hổ đến từ vùng Cao với đội quân gồm ba nghìn binh hổ bay để đề nghị hỗ trợ. Cuối cùng, Sùng Hắc Hổ và anh trai của mình đã đến được cổng thành của tỉnh Văn vương. Tuy nhiên, mục đích của Sùng Hắc Hổ chỉ đơn thuần là trò chuyện với người bạn cũ Tô Hộ. Thay vào đó, anh gặp phải con trai của Tô Hộ là Tô Toàn Trung, người tỏ ra bất bình và đối đầu với Sùng Hắc Hổ bằng những lời lẽ gay gắt. Đáp lại, Sùng Hắc Hổ đã giơ cao chiếc rìu vàng huyền thoại của mình để khẳng định uy quyền của mình và đưa Toàn Trung vào vị trí của mình. Trước sự ngạc nhiên của Sùng Hắc Hổ, Tô Toàn Trung đã thể hiện kỹ năng vượt trội với ngọn giáo của mình trong trận chiến sau đó của họ. Bị ấn tượng, Sùng Hắc Hổ quyết định rút lui, Tô Toàn Trung không ngừng truy đuổi anh ta. Lợi dụng tình thế, Sùng Hắc Hổ đã tung ra quả bầu thần huyền thoại mà anh mang trên lưng (món quà của cấp trên). Trong chốc lát, khói đen cuồn cuộn bốc lên từ bầu, che khuất mặt trời. Sùng Hắc Hổ cũng triệu hồi một con đại bàng thiêng để hỗ trợ mình. Anh ta hất Tô Toàn Trung xuống ngựa và bắt được anh ta thành công. Sau một thời gian, chỉ huy quạ nổi tiếng Trịnh Luân xuất hiện trước trại của Sùng Hắc Hổ và thách đấu anh ta. Sùng Hắc Hổ đáp lại một cách gay gắt: "Sao ngươi dám đưa ra những nhận xét táo bạo như vậy, tên kia! Chủ nhân của ngươi, người đã phản nghịch lại nhà vua, sẽ phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc với cơ thể bị nghiền nát và xương nghiền thành bột. Ngươi, cũng sẽ chịu chung số phận !" Sự việc này đã thể hiện danh tiếng và năng lực của Sùng Hắc Hổ trong cuộc chạm trán với Trịnh Luân. Trịnh luân, một cá nhân đáng chú ý có số mệnh vĩ đại, đã nhanh chóng nhận ra tiềm năng kỳ diệu của quả bầu lớn Sùng Hắc Hổ. Anh ta phóng ra hai luồng khói cực mạnh từ lỗ mũi, khiến Sùng Hắc Hổ bất tỉnh và khiến anh ta ngã khỏi yên ngựa. Sau khi bị bắt, Sùng Hắc Hổ đã cùng uống rượu với người bạn cũ Tô Hộ. Khi Văn Vương can thiệp và chấm dứt liên minh chỉ bằng một lá thư đơn giản, Sùng Hắc Hổ trở về vùng đất của mình đồng thời bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc. Cuối cùng, Sùng Hắc Hổ được phong làm vị thần của Bảng Phong thần (南岳大帝), một trong Năm vị thần của Hoàng đế thiêng liêng. Thờ cúng Sùng Hắc Hổ được tôn thờ trong tôn giáo dân gian Trung Quốc và được gọi là Ngũ Nhạc (Hoàng đế Ngũ Nhạc, 南岳大帝), một trong Năm vị thần núi thiêng. Trong Phong thần Diễn Nghĩa , có đề cập rằng Hoàng Phi Hổ, Sùng Hắc Hổ, Văn Sinh, Thôi Anh và Tưởng Hùng đã chết dưới tay Trương Khuê trong trận chiến. Sau khi chết, họ được tôn kính là Ngũ Thánh Hoàng. Trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, Ngũ Sơn Hoàng rất được kính trọng, trong đó Đông nhạc được đặc biệt quý trọng. Khi thờ cúng Ngũ Thánh Sơn, người ta thường đặt Đông Nhạc Hoàng Phi Hổ ở trung tâm, còn Nam Nhạc Sùng Hắc Hổ và Tây Nhạc Văn Sinh được đặt ở hai bên.  Đền Ngũ Nhạc, nằm ở quận Bản Kiều , Đài Loan, được thờ phụng Sùng Hắc Hổ, vị hoàng đế vĩ đại của Ngũ Nhạc. Hàng năm, lễ hội sinh nhật được tổ chức vào ngày 16 tháng 12 để tôn vinh di sản của ông. Đền thờ Ngũ Nhạc , nằm ở huyện Hành Sơn , tỉnh Hồ Nam, tự hào có 72 đỉnh núi, trong đó đỉnh chính là đỉnh Chu Hổ Dung, cao 1290 mét so với mực nước biển. Dưới chân núi Ngũ Nhạc có ngôi đền chính th Hoàng đế Ngũ Nhạc. Trong văn hóa đại chúng Thông tin thêm: Danh sách các bản chuyển thể trên phương tiện truyền thông của Lễ tấn phong các vị thần -Cắt giấy Sùng Hắc Hổ, một loại hình nghệ thuật quyến rũ có nguồn gốc từ huyện Hà Bắc , lấy cảm hứng từ cách trang điểm khuôn mặt sống động của Sùng Hắc Hổ trong vở opera truyền thống "Sishuiguan". Phong cách cắt giấy đặc biệt này thể hiện những thiết kế phức tạp và được đánh giá cao về giá trị văn hóa của nó. -Câu chuyện về Sùng Hắc Hổ được miêu tả trong vở kịch Nhạc.
4,327
19832901
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n%20gi%C3%A1o%20c%E1%BB%A7a%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20M%E1%BB%B9%20b%E1%BA%A3n%20%C4%91%E1%BB%8Ba
Tôn giáo của người Mỹ bản địa
Tôn giáo của người Mỹ bản địa (Native American religions) hay tôn giáo của thổ dân da đỏ hay tôn giáo của người Anh-Điêng là những thực hành tâm linh của người Mỹ bản địa (người da đỏ) ở Hoa Kỳ và châu Mỹ nói chung. Các cách nghi lễ tôn giáo bản địa của người da đỏ có thể rất khác nhau và dựa trên lịch sử và tín ngưỡng khác nhau của từng cộng đồng, bộ lạc và nhóm thổ dân. Những nhà thám hiểm châu Âu ban đầu mô tả các bộ lạc người Mỹ bản địa riêng lẻ và thậm chí cả các nhóm nhỏ đều có những thực hành tôn giáo riêng. Về mặt thần học thì hệ thống thần linh của người da đỏ có thể là độc thần, đa thần, theo thuyết vật linh, Shaman giáo (pháp sư), phiếm thần hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của chúng, trong số những thứ khác. Niềm tin truyền thống thường được truyền lại dưới hình thức lịch sử truyền miệng, câu chuyện, ngụ ngôn và nguyên tắc sống. Cải đạo Bắt đầu từ những năm 1600, những Cơ đốc nhân ở Châu Âu, và cả Công giáo cùng những người thuộc các giáo phái Tin lành khác nhau, đã tìm cách chuyển đổi cải đạo các bộ lạc người Mỹ bản địa từ niềm tin tổ tiên của họ sang Cơ đốc giáo. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập vào cuối những năm 1700, chính phủ của nước này tiếp tục đàn áp các tập tục của người bản địa và thúc đẩy việc cưỡng bức cải đạo. Các cơ quan chính phủ và các tổ chức tôn giáo thường hợp tác trong các nỗ lực cưỡng bức cải đạo này. Trong nhiều trường hợp, bạo lực được sử dụng như một công cụ đàn áp, chẳng hạn như việc chính phủ dùng bạo lực tiêu diệt những người trình diễn Vũ điệu ma vào năm 1890. Vào đầu thế kỷ XX, chính phủ Mỹ bắt đầu chuyển sang các biện pháp ít bạo lực hơn để đàn áp niềm tin tôn giáo của người Mỹ bản địa. Một loạt luật liên bang đã được thông qua cấm các tập tục truyền thống của Người bản địa như các bữa tiệc, nghi lễ Múa mặt trời và việc sử dụng lều nghi lễ, cùng những điều khác. Cuộc đàn áp và truy tố này của chính phủ chính thức tiếp tục cho đến năm 1978 với việc thông qua Đạo luật Tự do Tôn giáo của người Mỹ bản địa (AIRFA), mặc dù có ý kiến ​​cho rằng AIRFA có rất ít tác dụng thực sự trong việc bảo vệ tín ngưỡng dân gian, tôn giáo bản địa. Một hệ thống đàn áp tôn giáo quan trọng khác là tách trẻ em người Mỹ bản địa khỏi gia đình của chúng để chuyển sang hệ thống trường nội trú dành cho người Mỹ bản địa do chính phủ tài trợ và điều hành (còn được gọi là trường dân cư). Tại những trường học này, trẻ em bản địa bị ép buộc bằng bạo lực và áp bức để học tín ngưỡng Cơ đốc giáo châu Âu, các giá trị của nền văn hóa da trắng chính thống và tiếng Anh, đồng thời bị cấm nói ngôn ngữ riêng và thực hành tín ngưỡng văn hóa của riêng họ. Hệ thống cưỡng bức chuyển đổi và đàn áp ngôn ngữ và văn hóa bản địa này tiếp tục diễn ra trong suốt những năm 1970. Một số nhà nhân chủng học không phải người bản địa ước tính số thành viên trong các tôn giáo truyền thống của người Mỹ bản địa trong thế kỷ 21 là khoảng 9000 người. Vì người Mỹ bản địa thực hành các nghi lễ truyền thống thường không có các tổ chức công cộng hoặc danh sách thành viên nên những ước tính về "thành viên" này có thể thấp hơn đáng kể so với số lượng người thực tế tham gia các nghi lễ truyền thống. Các nhà lãnh đạo tinh thần của người Mỹ bản địa cũng lưu ý rằng những ước tính mang tính học thuật này đã đánh giá thấp đáng kể số lượng người tham gia vì một thế kỷ chính phủ Liên bang Hoa Kỳ đàn áp và truy tố các nghi lễ truyền thống đã khiến các tín đồ thực hành tôn giáo của họ một cách bí mật. Nhiều người theo đường lối tâm linh truyền thống cũng tham dự các buổi lễ của Cơ đốc giáo, ít nhất là đôi khi, điều này cũng có thể ảnh hưởng đến số liệu thống kê. Kể từ khi 80 năm các cuộc đàn áp pháp lý trước đó kết thúc với AIRFA, một số địa điểm linh thiêng ở Hoa Kỳ hiện là khu vực được bảo vệ theo luật Phục hồi Mexicayotl (tiếng Nahuatl từ có nghĩa là "Bản chất của người Mexico" - Bản sắc Mễ, bao gồm cụm từ "Mexico"; tiếng Tây Ban Nha: Mexicanidad và hậu tố -yotl) là một phong trào phục hồi tôn giáo, triết học và truyền thống bản địa của Mexico cổ đại (tôn giáo Aztec và triết học Aztec) của người Mễ. Phong trào này được công khai lộ diện vào những năm 1950, do các trí thức thành phố Mexico lãnh đạo, nhưng chỉ phát triển đáng kể ở cấp độ cơ sở trong thời gian gần đây, cũng lan sang người Mỹ gốc Mexico (Chicanos) ở Bắc Mỹ. Nghi lễ của họ liên quan đến thực hành Mitotiliztli. Những người sùng mộ được gọi là Mexicatl (số ít) và Mexicah (số nhiều), hoặc đơn giản là Mexica, hầu hết đều là dân thành thị và ngoại ô. Phong trào Mexicayotl bắt đầu vào những năm 1950 với việc thành lập nhóm Nueva Mexicanidad do Antonio Velasco Piña sáng lập. Cùng năm đó, Rodolfo Nieva López đã thành lập Phong trào Liên minh nhằm Khôi phục Văn hóa Anáhuac cùng với người đồng sáng lập là Francisco Jimenez Sanchez, người trong những thập kỷ sau đó đã trở thành nhà lãnh đạo tinh thần của phong trào Mexicayotl, được ban cho danh xưng Tlacaelel. Ông có ảnh hưởng sâu sắc trong việc định hình phong trào, thành lập In Kaltonal ("Ngôi nhà của Mặt trời", còn gọi là Nhà thờ Bản địa Mễ Tây Cơ) vào những năm 1970. Từ những năm 1970 trở đi, Mexcayotl đã phát triển trên một mạng lưới các nhóm cộng đồng và thờ cúng địa phương (được gọi là calpulli hoặc kalpulli) và lan sang Người Mỹ gốc Mễ hoặc Chicanos ở Hoa Kỳ. Phong trào cũng đã phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các phong trào bản sắc dân tộc Mexico và chủ nghĩa dân tộc Chicano. Nhà thờ bản địa Mexico của Sanchez (là một liên minh của các Calpullis) đã được chính phủ Mexico chính thức công nhận vào năm 2007. Chú thích
5,489
19832905
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BA%BFt%20h%E1%BB%AFu%20th%E1%BA%A7n%20Satan
Thuyết hữu thần Satan
Thuyết hữu thần Satan (Theistic Satanism) còn được gọi là tôn giáo thờ Satan là một thuật ngữ chung để chỉ các nhóm tôn giáo coi Satan, Ác quỷ hoặc Lucifer tồn tại một cách khách quan như một vị thần, thực thể siêu nhiên hoặc linh hồn xứng đáng thờ phượng hoặc tôn kính, những người mà các cá nhân có thể tiếp xúc và triệu hồi, trái ngược với nguyên mẫu, ẩn dụ hoặc biểu tượng vô thần được tìm thấy trong thuyết Satan LaVeyan. Các hội nhóm ủng hộ niềm tin hữu thần của tôn giáo Satan thường có ít tín đồ, liên hệ lỏng lẻo hoặc tự coi mình là các nhóm và nhóm độc lập, phần lớn tự đặt mình ra ngoài lề xã hội. Một đặc điểm nổi bật khác của thuyết Satan hữu thần là việc sử dụng nhiều loại phép thuật khác nhau. Hầu hết các nhóm theo thuyết Satan hữu thần đều tồn tại trong những mô hình và hệ tư tưởng tương đối mới, nhiều nhóm trong số đó độc lập với các tôn giáo Áp-ra-ham. Đại cương Thuyết hữu thần Satan bao gồm nhiều tôn giáo liên quan đến việc thờ phượng một hình tượng được gọi là Satan hay là có liên quan đến Satan. Ngược lại với LaVeyan Satanism, giáo phái Satan chỉ coi Satan như một biểu tượng cho triết lý của họ, còn Theistic Satanism là những giáo phái coi Satan như một vị thần, một thực thể có thật. Satan giáo là một tôn giáo phát triển phần lớn trong thế kỷ XX. Người theo đạo Satan hữu thần thường được gọi là "giáo đồ Satan truyền thống" hoặc "Satanist thuộc linh". Thuật ngữ "thờ phụng quỷ dữ" là chủ đề gây tranh cãi nhất trong giới Satan cả hữu thần lẫn vô thần và cả những nhà thần học Satan. Nhiều tín đồ Satan đã được biết đến Satan giáo qua cuốn "Kinh Satan" của Anton LaVey đã được xuất bản vào năm 1966. Lúc đó chỉ có một vài nhóm nhỏ thực hành pháp môn Satan giáo Sau đó, Satan giáo mới chỉ phát triển mạnh khi Internet bắt đầu phổ cập, điều này dẫn tới sự mở rộng tín đồ vì việc truyền bá thông tin đã trở nên dễ dàng hơn dẫn đến việc phát tán dễ hơn. Những người theo Satan giáo hữu thần thừa nhận Satan là một vị thần mà họ tôn thờ. Tuy nhiên, nó không giống như Satan được mô tả theo đạo Thiên chúa. Trái với quan niệm sai lầm thông thường, Satan giáo không cổ xúy việc giết người, hãm hiếp, làm điều ác thay vào đó, vị thần Satan là vị thần của sự tự do, tình dục, sức mạnh, sự sáng tạo, chủ nghĩa khoái lạc và sự thành công. Satan giáo hữu thần không có một tổ chức đầu cơ, mà chỉ là những hội nhóm nhỏ lẻ hoạt động độc lập với nhau. Một số hội nhóm này thờ phượng một vị thần Satan, một số nhóm khác thì sử dụng cái tên khác thay cho Satan, một số nhóm thờ Satan hữu thần như: -Nhà thờ Azazel (Church of Azazel) -The Ordo Flammeus Serpens -The First Church of Satan (khác với Giáo hội Satan/Church of Satan của Anton LaVey) -Joy of Satan Ministries Quan điểm thần học giữa các nhóm có thể khác nhau rất nhiều. Một số vay mượn quan điểm của LaVeyan trong khi đó một số khác thì ảnh hưởng từ triết lý của Michael Aquino, giáo chủ của Temple of Set, trước đây đã từng là một tín đồ Satan giáo vô thần. Tương tự, tín đồ Lucfier cũng có nhiều nguyên tắc giống như tín đồ Satan hữu thần. Họ thừa nhận một thực thể có tên là Lucifer, nhưng họ không tự gọi mình là tín đồ Satan. Trong một số giáo phái Satan hữu thần, tín đồ có niềm tin vào Thượng Đế Satan như là vũ trụ. Trong đó, Satan được xem như là "Cái Toàn Thể". Các hội nhóm khác gây dựng hình ảnh Satan như là đại diện của vũ trụ. The First Church of Satan là Độc thần giáo. Các giáo phái Satan hữu thần khác thì tôn thờ Satan như một vị thần trong số nhiều vị thần khác, nhiều trong số đó đến từ những tôn giáo cổ trước khi Abraham xuất hiện như Nhà thờ Azazel. Năm 1999, triết gia René Girard người Pháp cho xuất bản cuốn sách tựa đề “Đã thấy Satan từ trời rơi xuống như ánh chớp”, trong đó ông áp dụng cho Belzebul “lý thuyết vật hiến tế”, dựa trên hiến tế của người vô tội để chuộc sự dữ, sau đó, một trong những môn sinh của ông là triết gia Claudio Tardini, đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề “Ma qủy, có lẽ thế. Suy tư trở lại Satan ngày nay” với mục đích là thử thành lập một “khoa ma qủy học hữu lý” và trao ban trở lại quyền công dân cho Satan trong tư tưởng ngày nay, bằng cách trốn chạy chủ trương nghi hoặc duy lý cũng như các lo sợ của thuyết duy tín. Chú thích
4,162
19832919
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gonohe%2C%20Aomori
Gonohe, Aomori
là thị trấn thuộc quận Sannohe, tỉnh Aomori. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 16.042 người và mật độ dân số là 90 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 177,67 km².
193
19832920
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C5%8Cigawa%20Kazuhiko
Ōigawa Kazuhiko
(sinh ngày 3 tháng 4 năm 1964) là chính khách người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Ibaraki kể từ ngày 26 tháng 9 năm 2017.
151
19832932
https://vi.wikipedia.org/wiki/Posh%20v%C3%A0%20Becks
Posh và Becks
Posh và Becks (tiếng Anh: Posh and Becks) là một biệt danh của cặp đôi người Anh rất nổi tiếng Victoria Beckham (họ thời con gái Adams, thành viên "Posh Spice" của nhóm nhạc nữ Spice Girls) và David Beckham (nam danh thủ bóng đá và cựu đội trưởng đội tuyển bóng đá quốc gia Anh). Posh & Becks cũng là tựa đề quyển sách nói về cặp đôi của tác giả Andrew Morton. Adams và Beckham bắt đầu hẹn hò vào năm 1997, từ đó dẫn tới sự hình thành thuật ngữ kể trên nhờ vào hiệu ứng truyền thông rộng rãi. Đám cưới của cặp đôi nổi tiếng diễn ra vào ngày 4 tháng 7 năm 1999, và căn nhà chung của hai người họ tại Hertfordshire, Anh Quốc rất nhanh được truyền thông đặt biệt danh là "Beckingham Palace" (cách nói ghép từ giữa cung điện Buckingham và họ Beckham). Vợ chồng Beckham có ba người con trai: Brooklyn, Romeo và Cruz; và một người con gái út: Harper. "Posh và Becks" được chính thức đưa vào trong từ điển Collins Concise English Dictionary vào năm 2001. Thuật ngữ này được sử dụng nhiều trên báo chí và những phương tiện truyền thông khác, và trở nên phổ biến rộng rãi ở nền văn hoá nước Anh. Tuy nhiên, "Posh và Becks" cũng từ đó bị biến thành từ lóng, ý chỉ "tình dục".
1,165
19832957
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20tuy%E1%BB%83n%20c%E1%BB%AD%20Serbia%201989
Tổng tuyển cử Serbia 1989
Cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại Serbia vào ngày 12 tháng 11 năm 1989 để bầu ra Tổng thống Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia và các đại biểu Quốc hội CHXHCN Serbia. Bỏ phiếu bầu cử đại biểu cũng diễn ra vào ngày 10 và 30 tháng 11 năm 1989. Ngoài cuộc tổng tuyển cử, các cuộc bầu cử địa phương cũng được tổ chức đồng thời. Đây là cuộc bầu cử trực tiếp đầu tiên tại Serbia sau khi Hiến pháp Nam Tư 1974 và hệ thống bầu cử đại biểu được thông qua. Cuộc bầu cử diễn ra trước sự nổi lên của Slobodan Milošević, sau khi ông được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn những người Cộng sản Serbia (SKS) năm 1986, và lật đổ cố vấn của mình, Ivan Stambolić, và các đồng minh của Stambolić ra khỏi các vị trí chủ chốt vào năm 1987. Milošević bắt đầu cuộc cách mạng chống quan liêu và sửa đổi Hiến pháp Serbia năm 1988. Sau khi Milošević được bổ nhiệm vào vị trí Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia vào tháng 5 năm 1989, các cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội được công bố vào tháng 11 năm 1989. Milošević, Mihalj Kertes, Zoran Pjanić và Miroslav Đorđević là các ứng cử viên trong cuộc bầu cử tổng thống. Milošević cuối cùng đã giành chiến thắng long trời lở đất. SKS giành được 303 ghế, giảm 20 ghế so với cuộc bầu cử năm 1986, và 37 cá nhân phi đảng phái khác giành được số ghế còn lại trong Quốc hội. Liên đoàn những người Cộng sản Nam Tư giải tán vào tháng 1 năm 1990, và sau cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 7 năm 1990, Serbia đã thông qua hiến pháp mới thực hiện chế độ đa đảng và giảm bớt quyền lực của các tỉnh tự trị Kosovo và Vojvodina. Cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên sau đó được tổ chức vào tháng 12 năm 1990. Bối cảnh Sau Chiến tranh thế giới thứ hai Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản củng cố quyền lực ở Nam Tư, biến đất nước này thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mỗi nước cộng hòa cấu thành đều có Đảng Cộng sản riêng, trong đó Serbia có Đảng Cộng sản Serbia. Đảng Cộng sản liên bang đổi tên thành Liên đoàn những người Cộng sản Nam Tư (SKJ) tại Đại hội thứ 6 năm 1952. Các chi bộ cũng làm theo, và Đảng Cộng sản Serbia đổi tên thành Liên đoàn những người Cộng sản Serbia (SKS). Josip Broz Tito là chủ tịch của SKJ cho đến khi ông chết năm 1980. Sau cái chết của Tito, Nam Tư phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến kinh tế, các vấn đề về hiến pháp và nguy cơ chủ nghĩa dân tộc sắc tộc trỗi dậy. Nam Tư ban đầu thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng để giảm nợ. Dù vậy, nợ, lạm phát và thất nghiệp vẫn gia tăng mạnh vào những năm 1980. Theo nhà báo Zlatoje Martinov, các nước cộng hòa cấu thành đã "mạnh mẽ hơn và trên thực tế trở thành các quốc gia có lực lượng vũ trang của riêng họ" (sve više jačaju i predstavljaju faktičke države sa sopstvenim oružanim snagama) vì các cuộc khủng hoảng. Martinov cũng nói rằng quá trình giải thể dần dần Nam Tư đang diễn ra. Sau cuộc bầu cử quốc hội năm 1986, Desimir Jevtić được bầu làm Thủ tướng Serbia. Sự nổi lên của Slobodan Milošević Ivan Stambolić, Chủ tịch Ủy ban Thành phố của Liên đoàn những người Cộng sản Beograd, được bầu làm Chủ tịch SKS năm 1984. Stambolić được coi là một người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cải lương trong SKS. Ông là cố vấn của Slobodan Milošević, và là đồng nghiệp tại Khoa Luật, Đại học Beograd. Sau khi trở thành Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương SKS vào năm 1984, Stambolić bổ nhiệm Milošević làm người kế nhiệm chức vụ trước đây của ông, bất chấp sự phản đối của các quan chức cộng sản lớn tuổi. Milošević sau đó bắt đầu thành lập một nhóm quan chức trung thành với ông. Trước cuộc bầu cử quốc hội năm 1986, Stambolić tuyên bố sẽ từ chức người đứng đầu SKS. Mặc dù nhận được sự ủng hộ từ 84 hội đồng thành phố của SKS, Milošević vẫn vấp phải sự phản đối mạnh mẽ trong nội bộ đảng. Một số đề xuất chọn một số ứng cử viên trong cuộc bầu cử lãnh đạo đã được đưa ra. Mặc dù vậy, nhóm tổng thống đã bỏ phiếu với tỷ lệ 12–8 để đề xuất Milošević làm ứng cử viên duy nhất cho chức Chủ tịch Ủy ban Trung ương SKS. Milošević được bầu thành công làm chủ tịch SKS vào tháng 5 năm 1986, trong khi Stambolić cũng bắt đầu giữ chức Tổng thống Serbia. Dragiša Pavlović, một người theo chủ nghĩa tự do và là đồng minh của Stambolić, cũng trở thành chủ tịch Ủy ban Thành phố của Liên đoàn những người Cộng sản Beograd. Milošević đổi sang chủ nghĩa dân túy vào tháng 4 năm 1987. Ông bắt đầu ủng hộ người Serbia ở Kosovo, và trong một lần đến thăm Kosovo, ông đã nói với người Serb rằng "sẽ không ai dám tấn công các bạn" (ne sme niko da vas bije). Trong cùng thời gian đó, ông cũng bắt đầu chỉ trích Stambolić và Pavlović nhiều hơn, đặc biệt là do lập trường ôn hòa của họ đối với Kosovo. Milošević triệu tập một phiên họp Ủy ban Trung ương SKS vào tháng 9 năm 1987. Tại phiên họp, Stambolić cố gắng hòa giải Pavlović và Milošević, nhưng thay vào đó Milošević lại chỉ trích Stambolić và Pavlović. Pavlović và các đồng minh khác của Stambolić sau đó bị cách chức. Một số nhà khoa học chính trị đã mô tả phiên họp này như một cuộc đảo chính. Stambolić bị cô lập sau phiên họp và bị cách chức tổng thống Serbia vào tháng 12 năm 1987. Sau đó ông rút lui khỏi chính trường. Bắt đầu từ năm 1988, các cuộc biểu tình, được gọi là cuộc cách mạng chống quan liêu, khởi đầu ở Serbia và Montenegro nhằm ủng hộ chương trình tập trung hóa của Milošević. Mặc dù Milošević phủ nhận rằng ông trực tiếp tham gia vào các cuộc biểu tình, trên thực tế ông có liên hệ trực tiếp với bên tổ chức. Ở Montenegro, giới lãnh đạo buộc phải từ chức, và được thay thế bởi phe ủng hộ Milošević, do Momir Bulatović lãnh đạo. Điều này cũng nhanh chóng xảy ra ở Vojvodina và Kosovo. Ở Vojvodina, Mihalj Kertes đặc biệt trở thành một nhân vật nổi bật nhờ tuyên bố của ông: "Làm sao người Serbia các bạn có thể sợ Serbia, khi tôi, một người Hungary, không sợ Serbia?". Liên minh Nhân dân lao động Xã hội chủ nghĩa Nam Tư (SSRNS), một tổ chức bình dân trực thuộc SKS, đề xuất Milošević vào vị trí Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia. Ông được bổ nhiệm thành công vào ngày 8 tháng 5 năm 1989. Sửa đổi hiến pháp Hậu quả của cuộc cách mạng chống quan liêu 1988–1989 là sửa đổi Hiến pháp Nam Tư 1974. Là một phần của hiến pháp năm 1974, Kosovo được trao quyền tự trị toàn diện và quyền bầu cử bình đẳng như sáu nước cộng hòa cấu thành khác. Sau các cuộc biểu tình vào tháng 3 năm 1989, Milošević đề xuất những sửa đổi, và được Quốc hội Cộng hòa Kosovo và Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia chấp thuận. Đề xuất này thu hồi quyền lực mà các tỉnh tự trị Kosovo và Vojvodina nhận được trong hiến pháp năm 1974. Hệ thống bầu cử Vào thời điểm diễn ra cuộc bầu cử năm 1989, hệ thống bầu cử của Serbia tuân theo hiến pháp năm 1974. Thay vì trực tiếp bầu các nghị sĩ quốc hội, người dân bỏ phiếu bầu chọn thành viên của các cơ quan đại biểu. Thành viên của các cơ quan này sau đó bầu ra các đại biểu tham gia Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia. Hệ thống bỏ phiếu rất phức tạp. Nó kết hợp các yếu tố của hệ thống bỏ phiếu đa số trực tiếp, gián tiếp và một người thắng. Những người từ 15 tuổi trở lên có quyền bầu cử, và những người phục vụ trong quân đội vào thời điểm bầu cử có thể bỏ phiếu tại đồn quân sự của họ. Phiếu bầu không hợp lệ được đưa ra từ cuộc bầu cử năm 1989. Phiếu trống hoặc phiếu không xác định được ai bầu cho sẽ bị coi là không hợp lệ. Quốc hội được chia thành ba hội đồng. Hội đồng Liên đoàn Lao động có 160 đại biểu, còn Hội đồng Thành phố và Hội đồng Chính trị - Xã hội mỗi cơ quan có 90 đại biểu. Sau đó, các đại biểu bầu Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia, Hội đồng Cộng hòa và Tổng thống Cộng hòa Liên bang XHCN Nam Tư. Vào thời điểm diễn ra cuộc bầu cử năm 1989, Serbia vẫn là quốc gia đơn đảng. Nhưng cuộc bầu cử năm 1989 là cuộc bầu cử trực tiếp đầu tiên được tổ chức kể từ năm 1974. Cuộc bầu cử quốc hội được tiến hành trong ba ngày riêng biệt: 10, 12 và 30 tháng 11 năm 1989. Bầu cử địa phương được tiến hành cùng ngày với bầu cử quốc hội. Cuộc bầu cử tổng thống chỉ được tổ chức vào ngày 12 tháng 11. Các điểm bỏ phiếu được mở từ 07:00 (UTC+01:00) đến 19:00. Đảng phái chính trị Bảng dưới đây liệt kê các đảng phái chính trị có trong Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia sau cuộc bầu cử quốc hội năm 1986. Hội đồng Liên đoàn Lao động có 148 đại biểu SKS, Hội đồng Thành phố có 88 và Hội đồng Chính trị - Xã hội có 87. Hầu hết các đại biểu đều từ 50 tuổi trở xuống. Diễn biến Sau khi Milošević được bổ nhiệm làm Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia, các cuộc bầu cử được tiến hành nhằm bác bỏ mọi nguy cơ chỉ trích về việc liệu việc bổ nhiệm Milošević có phải là "mong muốn của người dân" (želja čitavog naroda) hay không. Do đó, cuộc bầu cử tổng thống được coi là một cuộc trưng cầu dân ý về việc liệu Milošević có nên giữ chức tổng thống hay không. SKS tuyên bố rằng "cuộc bầu cử này sẽ cho thấy rằng chúng ta tin tưởng vào các chính sách của ban lãnh đạo của chúng ta" (izbori treba da pokažu da verujemo u politiku svog rukovodstva). Vào thời điểm bầu cử, Bogdan Trifunović là Chủ tịch Ủy ban Trung ương SKS. Hơn 10.000 hội nghị đại biểu đã được tổ chức ở Serbia, như một phần của chiến dịch trước bầu cử. Có 19.478 cơ quan đại biểu với tổng số 346.518 thành viên. Các ứng cử viên tổng thống Tại phiên họp SSRNS ngày 1 tháng 11 năm 1989, Milošević chính thức được đề cử làm ứng cử viên tổng thống. Để cuộc bầu cử tổng thống danh chính ngôn thuận được cho là mang tính dân chủ, SSRNS đã đề cử nhiều ứng cử viên khác. Tuy nhiên, ban đầu không có ứng cử viên nào muốn mạo hiểm tranh cử với Milošević. SSRNS sau đó đề xuất bốn ứng cử viên cuối cùng, đó là Milošević, Kertes, và các giáo sư Zoran Pjanić và Miroslav Đorđević. Kết quả Theo báo cáo của Politika tháng 11 năm 1989, 14.855 điểm bỏ phiếu đã được mở trong cuộc bầu cử. Kết quả bầu cử được công bố vào ngày 20 tháng 11, tám ngày sau khi cuộc bầu cử được tổ chức. Bầu cử tổng thống Bắt đầu từ ngày 13 tháng 11, Đài Phát thanh - Truyền hình Serbia và Politika báo cáo số lượng cử tri đi bỏ phiếu và kết quả. Có thông tin cho rằng 99% cử tri Kuršumlija bỏ phiếu cho Milošević, và ở một số ngôi làng thuộc khu tự quản Kraljevo, Milošević giành được tất cả phiếu bầu. Kết quả tương tự cũng được báo cáo ở Kačanik. Trong khi đó, ở Vučitrn, Kertes giành được đa số phiếu bầu. Ở vùng Sandžak, Milošević giành được đa số phiếu bầu. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu sau đó được báo cáo là 83%, và Milošević đã giành được 80% tổng số phiếu bầu. Milošević giành được đa số phiếu bầu ở Trung Serbia, theo sau là Vojvodina. Ở Kosovo, ông chỉ giành được 25% số phiếu phổ thông. Ở Beograd, Milošević giành được 93% số phiếu phổ thông. Pjanić đứng thứ hai với 4%, Kertes thứ ba với 3,3% và Đorđević thứ tư với 2,7%. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu ở Beograd là 80,3%. Bầu cử quốc hội Đối với cuộc bầu cử quốc hội, tổng cộng có 6.640.675 cử tri có quyền bầu cử. Trong đó, 82% cử tri đã tham gia bầu cử. Kết quả, SKS giành được 303 ghế trong Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia, giảm 20 ghế so với cuộc bầu cử quốc hội năm 1986. 37 đại biểu trong số những người ngoài SKS đã được bầu chọn trong cuộc bầu cử. Hội đồng Liên đoàn Lao động có 134 đại biểu SKS được bầu, Hội đồng Thành phố có 84 đại biểu SKS và Hội đồng Chính trị - Xã hội có 85 đại biểu SKS. Sau tổng tuyển cử Lãnh đạo quốc hội Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia được thành lập vào ngày 5 tháng 12 năm 1989. Zoran Sokolović được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Vukašin Jokanović, Slobodan Janjić và Đorđe Šćepančević được bầu làm Phó chủ tịch Quốc hội. Stanko Radmilović, một người trung thành với Milošević, được bầu làm thủ tướng Serbia. Ngày 6 tháng 12, Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia chính thức tuyên bố Milošević là tổng thống. Giải thể SKJ Milošević đề xuất cải cách Quốc hội Liên bang Nam Tư vào năm 1989. Những đề xuất này bị Liên đoàn những người Cộng sản Slovenia phản đối, khi tổ chức này vốn ủng hộ giữ nguyên cơ cấu phù hợp với hiến pháp năm 1974. Do xảy ra tranh chấp, đại hội bất thường đầu tiên và duy nhất được tổ chức vào năm 1990. Đại hội lần thứ 14 được tổ chức tại Sava Centar, Beograd, vào ngày 20–23 tháng 1 năm 1990. Đại hội do Milan Pančevski chủ trì, và có hơn 1.600 đại biểu tham dự từ tất cả sáu nước cộng hòa cấu thành và hai tỉnh tự trị. Đại hội bắt đầu bằng cuộc tranh luận giữa Borut Pahor và Milomir Minić, và sau đó tiếp tục với việc Milan Kučan cho biết Slovenia bác bỏ các chính sách tập trung hóa do Serbia đề xuất. Ciril Ribičič và phái đoàn Slovenia bày tỏ sự thất vọng với phiên họp toàn thể đầu tiên của Đại hội lần thứ 14. Trưởng phái đoàn Serbia, Milošević, đề xuất hệ thống "một người-một phiếu bầu", nhưng điều này cũng bị phái đoàn Slovenia phản đối. Thay vào đó, họ ủng hộ tái thiết SKJ và Nam Tư thành một hệ thống bang liên. Với sự ủng hộ của các đại biểu Kosovo, Vojvodina, Montenegro và Quân đội Nhân dân Nam Tư, mọi đề xuất của phái đoàn Slovenia và Bosnia đều bị bác bỏ, trong khi đề xuất của Serbia được chấp thuận. Tại phiên họp toàn thể thứ hai, phái đoàn Slovenia rời Quốc hội, tuyên bố rằng họ không muốn chịu trách nhiệm "về nỗi thống khổ của Quốc hội Nam Tư về áp đặt ý chí hiện tại, và những người chịu những áp đặt đó đang lãnh đạo nó" (ne žele biti suodgovorni za agoniju SK Jugoslavije u koju je vode sadašnja nametanja volje i nosioci tih nametanja). Mặc dù Milošević muốn tiếp tục đại hội mà không có phái đoàn Slovenia, phái đoàn Croatia, do Ivica Račan dẫn đầu, phản đối điều này. Phái đoàn Croatia, cùng với các phái đoàn Macedonia, Bosnia và Herzegovinian, rời đại hội ngay sau đó. Pančevski hoãn phiên họp đến 3 giờ sáng ngày 23 tháng 1. Ngày 23 tháng 1, phần còn lại trong đề xuất của Serbia đã được chấp nhận. Phiên họp toàn thể lần thứ 3 của Đại hội 14 không bao giờ diễn ra, và SKJ chính thức giải thể. Trưng cầu dân ý về hiến pháp năm 1990 Trong khi Serbia vẫn còn là một quốc gia đơn đảng, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào tháng 7 năm 1990 về việc nên thông qua hiến pháp mới hay nên tổ chức bầu cử đa đảng trước. Đa số cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ việc thông qua hiến pháp mới, mặc dù người Albania ở Kosovo tẩy chay cuộc trưng cầu dân ý. Hiến pháp được thông qua vào tháng 9 năm 1990. Cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên được tổ chức vào tháng 12 năm 1990. Theo hiến pháp năm 1990, các tỉnh tự trị Kosovo và Vojvodina lần lượt đổi tên thành Tỉnh tự trị Kosovo và Metohija và Tỉnh tự trị Vojvodina, trong khi Cộng hòa XHCN Serbia đổi tên thành Cộng hòa Serbia. Quyền lực của các tỉnh bị giảm đi rất nhiều. Hệ thống bầu cử của Serbia cũng được thay đổi: hệ thống đại biểu bị bãi bỏ, Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia được đổi tên thành Quốc hội (National Assembly), và số ghế giảm xuống còn 250. Chủ tịch Quốc hội cũng là người sắp xếp các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống. Serbia cũng trở thành một quốc gia đa đảng, nghĩa là theo Luật Tổ chức chính trị, các đảng phái chính trị có thể đăng ký tham gia các cuộc bầu cử trong tương lai. SKS sáp nhập với SSRNS thành Đảng Xã hội chủ nghĩa Serbia (SPS), trong khi các đảng đối lập như Đảng Dân chủ, Phong trào Đổi mới Serbia (SPO), Đảng Nhân dân Cấp tiến và Đảng Tá điền Nhân dân (NSS) cũng đăng ký trở thành đảng phái chính trị.
14,859
19832959
https://vi.wikipedia.org/wiki/IChat
IChat
iChat (trước đây là iChat AV) là một ứng dụng nhắn tin tức thời đã ngừng phát triển được Apple Inc. phát triển cho hệ điều hành Mac OS X. Trong OS X 10.8 Mountain Lion, iChat đã được thay thế bằng Messages để trò chuyện và FaceTime để gọi video. Các giao thức được hỗ trợ Hỗ trợ AIM của iChat được AOL hoàn toàn chứng thực và sử dụng triển khai chính thức của giao thức AIM OSCAR. Sử dụng một luồng vận tải XMPP, iChat có thể đóng vai trò là máy khách cho AOL Instant Messenger, Yahoo! Messenger, MobileMe, ICQ và XMPP. iChat cũng có thể tích hợp danh bạ Google Talk vào ngăn XMPP.
583
19832976
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bud%20Yorkin
Bud Yorkin
Alan David "Bud" Yorkin (22 tháng 2 năm 1926 – 18 tháng 8 năm 2015) là một nhà sản xuất, đạo diễn, nhà biên kịch và diễn viên phim điện ảnh và truyền hình người Mỹ. Sinh ra tại Washington, Pennsylvania, Yorkin có bằng kỹ sư từ trường Carnegie Tech, nay là Đại học Carnegie Mellon ở Pittsburgh. Một số tác phẩm đáng chú ý của ông bao gồm Start the Revolution Without Me (1970) và Blade Runner (1982). Tiểu sử Yorkin sinh ra với tên đầy đủ là Alan David Yorkin vào ngày 22 tháng 2 năm 1926 tại Washington, Pennsylvania. Năm 16 tuổi, anh gia nhập Hải quân Hoa Kỳ và phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Yorkin có bằng kỹ sư từ trường Carnegie Tech, nay là Đại học Carnegie Mellon ở Pittsburgh. Sự nghiệp Năm 1954, Yorkin trở thành nhà sản xuất cho chương trình The Tony Martin Show của NBC – một chương trình tạp kỹ có thời lượng 15 phút phát trước bản tin hàng đêm vào tối thứ Hai. Năm 1955, ông sản xuất và đạo diễn bộ phim hài quân sự trực tiếp dài 11 tập mang tựa đề The Soldiers, với sự tham gia diễn xuất của Hal March, Tom D'Andrea và John Dehner. Năm 1956, ông trở thành nhà sản xuất và đạo diễn của chương trình hài kịch/tạp kỹ The Ford Show của NBC, chương trình này do Tennessee Ernie Ford đạo diễn. Năm 1958, Yorkin cùng với cây viết/nhà sản xuất Norman Lear thành lập Tandem Productions, công ty chuyên hợp tác sản xuất một số phim điện ảnh và chương trình truyền hình đặc biệt trong những năm 1960 đến 1971 với các hãng phim lớn như United Artists và Warner Bros. Yorkin đạo diễn và sản xuất chương trình truyền hình đặc biệt năm 1958 mang tên An Evening with Fred Astaire, và tập truyền hình này đem về 9 giải Emmy. Sau đó ông tham gia sản xuất nhiều bộ phim sitcom ăn khách của thập niên 1970, bao gồm All in the Family, Maude, Good Times và Sanford and Son. Sau khi tách ra khỏi Lear, Yorkin tiếp tục thành lập Bud Yorkin Productions. Bộ phim sitcom đầu tiên của ông sau khi tách ra là bộ phim sitcom ăn theo Sanford and Son lấy tựa đề Grady – tác phẩm này không gặt hái được nhiều thành công. Năm 1976, ông thành lập TOY Productions cùng với Saul Turteltaub và Bernie Orenstein (nhà sản xuất của Sanford và Son từ năm 1974 đến năm 1977) và hai bản thành công lớn nhất của họ là What's Happening!! và Carter Country. TOY Productions sau đó được Columbia Pictures Television mua lại vào năm 1979. Năm 1963, Yorkin đạo diễn Come Blow Your Horn, với sự tham gia diễn xuất của Frank Sinatra và Lee J. Cobb. Yorkin tiếp tục đạo diễn và sản xuất bộ phim Start the Revolution Without Me với hai diễn viên chính Gene Wilder và Donald Sutherland vào năm 1970 đã trở thành một tác phẩm kinh điển đình đám. Ông cũng đạo diễn bộ phim Twice in a Lifetime năm 1985, với sự tham gia diễn xuất của Gene Hackman. Năm 1999, ông và Lear được trao Giải Lucy cho Phụ nữ trong điện ảnh để ghi nhận sự xuất sắc và đổi mới trong các tác phẩm sáng tạo nhằm nâng cao nhận thức của phụ nữ thông qua phương tiện truyền hình. Năm 2002, Yorkin được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Truyền hình. Đời tư Yorkin qua đời vào ngày 18 tháng 8 năm 2015, thọ 89 tuổi. Ông đã kết hôn với nữ diễn viên Cynthia Sikes Yorkin. Ông là cha của cây viết kiêm nhà sản xuất truyền hình Nicole Yorkin từ cuộc hôn nhân đầu tiên kéo dài ba mươi năm của ông với Peg Yorkin, đồng sáng lập và chủ tịch của Feminist Majority Foundation. Ông là thành viên của Chùa Wilshire Boulevard. Danh sách phim Đạo diễn Come Blow Your Horn (1963) Never Too Late (1965) Divorce American Style (1967) Inspector Clouseau (1968) Start the Revolution Without Me (1970) The Thief Who Came to Dinner (1973) Twice in a Lifetime (1985) Arthur 2: On the Rocks (1988) Love Hurts (1990) Sản xuất Cold Turkey (giám đốc sản xuất) (1971) Blade Runner (giám đốc sản xuất) (1982) Deal of the Century (1983) Intersection (1994) Tội phạm nhân bản 2049 (2017)
3,799
19832986
https://vi.wikipedia.org/wiki/Matt%20Tolmach
Matt Tolmach
Matthew Tolmach (sinh năm 1964) là nhà sản xuất phim người Mỹ và cựu đồng chủ tịch khối sản xuất điện ảnh tại Sony Pictures Entertainment. Sự nghiệp Tolmach lần đầu tiên quan tâm đến điện ảnh sau khi nghe những câu chuyện từ ông nội, nhà sản xuất và giám đốc điện ảnh Sam Jaffe. Ông là người gốc Do Thái. Sau khi chuyển đến Los Angeles, ông làm việc với Frank Marshall để làm một bộ phim tài liệu về Lance Armstrong do Alex Gibney đạo diễn. Năm 2008, ông được bổ nhiệm làm đồng chủ tịch sản xuất tại Sony Pictures Entertainment cùng với Doug Belgrad (người mà ông đã làm việc cùng từ năm 2003), nơi ông quản lý thương hiệu Người Nhện. Năm 2010, ông rời Sony Pictures Entertainment để sản xuất phần tiếp theo của Người Nhện. Belgrad được bổ nhiệm làm chủ tịch duy nhất của hãng phim và Hanna Minghella được bổ nhiệm làm chủ tịch sản xuất. Đời tư Tolmach kết hôn với nữ đạo diễn Paige Goldberg. Họ có một đứa con. Danh sách phim Sản xuất -Money for Nothing (1993) -Coldblooded (1995) -Người Nhện: Siêu nhện tái xuất (2012) -The Armstrong Lie (2013) -Người Nhện siêu đẳng 2: Sự trỗi dậy của Người Điện (2014) -Freaks of Nature (2015) -Tiệc độc thân nhớ đời (2017) -Jumanji: Trò chơi kỳ ảo (2017) -Venom (2018) -Trò chơi kỳ ảo: Thăng cấp (2019) -Venom: Đối mặt tử thù (2021) -Morbius (2022) -Dark Harvest (2023) -Kraven: Thợ săn thủ lĩnh (2024) Giám đốc sản xuất -Người Nhện: Trở về nhà (2017) -Người Nhện xa nhà (2019) -Future Man (2017–2020) -Người Nhện: Không còn nhà (2021) Cảm ơn đặc biệt -Sausage Party (2016)
1,513
19832988
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mixed%20Nuts%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%29
Mixed Nuts (bài hát)
là bài hát do ban nhạc Nhật Bản Official Hige Dandism thu âm, phát hành dưới định dạng kỹ thuật số vào ngày 15 tháng 4 năm 2022, thông qua hãng đĩa Irori Records. Bài hát được chọn làm bài hát chủ đề mở đầu mùa đầu tiên cho bộ anime Spy × Family. Bài hát đã đạt vị trí số một trên Japan Hot 100 và vị trí thứ 61 trên Billboard Global 200. Mixed Nuts EP được phát hành vào ngày 22 tháng 6 năm 2022. Sáng tác và lời bài hát "Mixed Nuts" là một bài hát nhạc jazz và pop rock, được sáng tác bằng phím Sol giáng trưởng và được đặt ở nhịp đặc trưng của thời gian thông thường với nhịp độ 150 BPM, chạy trong 3 phút 33 giây. Nó được sáng tác và viết bởi ca sĩ Satoshi Fujihara cho anime Spy × Family, với chủ đề gia đình, cũng như tình yêu của nhân vật chính Anya dành cho đậu phộng. "Tôi từng nghe Anya nói rằng cô bé rất thích đậu phộng. Tôi chợt nghĩ đến đậu phộng trong các loại hạt hỗn hợp mà tôi thường ăn và tra cứu chúng, tôi phát hiện ra rằng tuy trông giống nhau nhưng quả hạch mọc trên cây và đậu phộng mọc dưới đất, được phân thành hai loại khác nhau và đậu phộng thực sự là một loại khác, bất chấp vẻ ngoài của chúng." Sau đó anh ấy tuyên bố, "Tôi cảm thấy đây chính là chủ đề của tác phẩm này, có điều gì đó thú vị khi đóng vai một gia đình giả trong khi che giấu danh tính thực sự của mình và đối đầu với thứ gì đó giống như một gia đình thực sự, và rằng hạnh phúc và niềm vui đến với bạn mới là điều quan trọng, chứ không phải là nó có thật hay không. Tôi đã tạo ra tác phẩm này với ý nghĩ của mình." Video âm nhạc Video âm nhạc cho "Mixed Nuts" được phát hành vào ngày 15 tháng 4 năm 2022, cùng ngày với đĩa đơn được phát hành và do Takuto Shimpo đạo diễn. Danh sách -Tải xuống kỹ thuật số / streaming - – 3:33 -CD / tải xuống kỹ thuật số / streaming (Mixed Nuts EP) -"Mixed Nuts" – 3:33 -"Anarchy" – 4:29 -"Choral A" – 3:59 - – 4:41 Nhân sự Official Hige Dandism -Satoshi Fujihara – hát chính, lời bài hát, soạn nhạc, trống bổ sung, sáng tác -Daisuke Ozasa – guitar, hát đệm -Makoto Narazaki – bass guitar, hát đệm -Masaki Matsuura – trống, hát đệm Các nhạc sĩ bổ sung -Atsuki Yumoto – người đồng dàn nhạc – kèn, kèn -Toshihiro Kawashima – kèn trombone -Andy Wulf – saxophone -Seiya Yokota – trống bổ sung, người đồng dàn nhạc – trống Sản xuất -Genki Wada – kỹ thuật viên trống, bổ sung trống -Kazutaka Minemori – kỹ thuật viên guitar -Kazuhiro Saito – kỹ thuật viên nhạc cụ -Shota Kinebuchi – kỹ thuật viên nhạc cụ -Takuya Kondo – kỹ thuật viên nhạc cụ -Masahito Komori – kỹ thuật viên âm thanh -Randy Merrill – kỹ thuật viên hậu kỳ Bảng xếp hạng âm nhạc Bảng xếp hạng âm nhạc hàng tuần Bảng xếp hạng âm nhạc cuối năm Giải thưởng Chứng nhận
2,656
19832990
https://vi.wikipedia.org/wiki/Apple%20A14
Apple A14
Apple A14 Bionic là một bộ vi xử lý 64-bit ARMv8.5-A được thiết kế bởi công ty Apple Inc. Con chip này xuất hiện trên các dòng iPad Air thế hệ 4 và iPad thế hệ 10, iPhone 12 Mini, iPhone 12, iPhone 12 Pro, và iPhone 12 Pro Max. Thiết kế Apple A14 Bionic gồm một CPU sáu nhân 64-bit của Apple kiến trúc ARMv8, trong đó gồm có hai nhân hiệu suất cao có tên gọi là Firestorm và bốn nhân tiết kiệm điện được gọi là Icestorm. Apple công bố rằng Apple A14 Bionic có hiệu suất CPU nhanh hơn 40% so với A12, trong khi hiệu suất GPU nhanh hơn 30% so với A12. Nó được trang bị bộ xử lý thần kinh 16 nhân nhanh gấp 2 lần. Neural Engine có thể xử lý lên đến 11 nghìn tỷ phép mỗi giây. Ngoài Neural Engine riêng biệt, CPU A14 còn có bộ tăng tốc nhân vô hướng ma trận học máy thế hệ thứ hai (mà Apple gọi là khối AMX) nhanh gấp 10 lần. A14 còn được trang bị hệ thống xử lý ảnh giúp tăng cường và cải thiện khả năng chụp hình quay phim số. A14 được sản xuất bởi TSMC với tiến trình 5 nm, N5. Đồng thời, A14 đã trở thành sản phẩm thương mại chạy trên tiến trình 5 nm đầu tiên. Số bóng bán dẫn được tăng lên 11.8 tỷ, nhiều hơn 38.8% so với A13 là 8.5 tỷ. Theo Semianalysis, kích thước khuôn của bộ xử lý A14 là 88 mm2, với mật độ bóng bán dẫn là 134 triệu bóng bán dẫn trên mỗi mm2. Apple A14 được sản xuất bao gói đi kèm với 4 GB RAM LPDDR4X trên dòng iPhone 12 và 6 GB RAM LPDDR4X trên dòng iPhone 12 Pro. A14 hỗ trợ khả năng nén video định dạng HEVC và H.264. Nó cũng hỗ trợ giải mã HEVC, H.264, MPEG‑4 Part 2, và Motion JPEG. A14 về sau được sử dụng làm nền tảng cho dòng chip M1, dùng trên nhiều mẫu máy Macbook và iPad. Sản phẩm sử dụng Apple A14 Bionic -iPad (thế hệ 10) -iPad Air (thế hệ 4) -iPhone 12 & 12 Mini -iPhone 12 Pro & 12 Pro Max Biến thể Bảng bên dưới hiển thị các biến thể chip khác nhau dựa trên vi kiến trúc "Firestorm" và "Icestorm".
1,842
19833007
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90o%C3%A0n%20C%E1%BB%91%20v%E1%BA%A5n%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Ti%E1%BB%83u%20bang%20Michigan
Đoàn Cố vấn Việt Nam Đại học Tiểu bang Michigan
Đoàn Cố vấn Việt Nam Đại học Tiểu bang Michigan (thường gọi là Đoàn Đại học Tiểu bang Michigan và viết tắt là MSUG) là một chương trình hỗ trợ kỹ thuật được cung cấp cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa trong nỗ lực xây dựng nhà nước của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Từ năm 1955 đến năm 1962, theo hợp đồng với Cơ quan Hợp tác Quốc tế ở Washington và chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn, nhóm giảng viên và nhân viên của Đại học Tiểu bang Michigan đã tư vấn cho các cơ quan của chế độ Ngô Đình Diệm. Nhóm này giúp tư vấn và đào tạo nhân sự người Việt Nam về các lĩnh vực hành chính công, hành chính cảnh sát và kinh tế. MSUG làm việc độc lập với hầu hết các cơ quan chính phủ Mỹ, có quyền tiếp cận tổng thống chưa từng có và thậm chí còn hỗ trợ soạn thảo bản hiến pháp mới của đất nước. Một số đề xuất của MSUG được Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thực hiện và mang lại kết quả tích cực cho người dân Việt Nam. Tuy nhiên, nhóm có ảnh hưởng hạn chế đến việc ra quyết định của Tổng thống Diệm và diễn biến các sự kiện ở Việt Nam, và các ấn phẩm của những giảng viên bất mãn đã dẫn đến việc Tổng thống Diệm chấm dứt hợp đồng. Sau đó, khi nảy sinh những ám chỉ rằng CIA đã thâm nhập vào MSUG như một bình phong cho các hoạt động bí mật của nó, chương trình hỗ trợ kỹ thuật đã trở thành một nguyên nhân gây xôn xao dư luận trong những năm đầu của phong trào phản chiến về sau. Khởi động và triển khai dự án Trong thời gian tự lưu vong vào đầu thập niên 1950, Ngô Đình Diệm đã gặp mặt và kết bạn với Wesley R. Fishel, một cựu chuyên gia ngôn ngữ quân sự có bằng tiến sĩ về quan hệ quốc tế tại Đại học Chicago. Fishel "bị ấn tượng [với] quan điểm chống cộng và cải cách chính trị xã hội của Diệm, và hai người thường xuyên trao đổi thư từ". Khi Fishel được tuyển mộ vào năm 1951 với tư cách là trợ lý giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Tiểu bang Michigan, ông đã mời Diệm tham gia cùng mình. Hai năm sau, trên cương vị là trợ lý giám đốc Cục Nghiên cứu Chính phủ của trường đại học, Fishel bèn bổ nhiệm Diệm làm cố vấn về Đông Nam Á của cơ quan này. Kết quả mang tính cộng sinh: chuyến thăm nước Mỹ của Diệm đã giúp ông xây dựng được sự ủng hộ chính trị cần thiết để được bổ nhiệm làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam vào tháng 7 năm 1954; đến lượt Fishel trở thành một trong những cố vấn và người bạn tâm giao thân cận nhất của Diệm. Theo gợi ý của Fishel và đã biết rõ về khả năng của MSU, Diệm đề nghị một phần gói viện trợ của mình từ Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hoa Kỳ bao gồm bản hợp đồng "hỗ trợ kỹ thuật" với Đại học Tiểu bang Michigan. Do đó, MSU được yêu cầu sử dụng chuyên môn hòng giúp ổn định nền kinh tế Việt Nam, cải thiện bộ máy quan liêu của chính phủ và kiểm soát cuộc nổi dậy của cộng sản đang diễn ra. Đại học Tiểu bang Michigan, thuộc loại đại học tiên phong được cấp đất, ngay từ khi thành lập đã tin tưởng vào việc biến lý thuyết thành thực tiễn; ví dụ, dịch vụ khuyến nông của họ giúp cung cấp kết quả nghiên cứu của mình cho nông dân trên khắp bang Michigan để họ sử dụng trong thực tế. Vì sự nhấn mạnh vào giáo dục thực tế và sự tham gia của cộng đồng, nhà trường đã tuyên bố một cách chính đáng rằng "đây mới là cơ sở của chúng tôi". Hiệu trưởng Đại học John A. Hannah nói riêng là người đề xuất chính cho cái gọi là tổ chức định hướng dịch vụ; đối với ông, đó là bước đi hợp lý tiếp theo để mở rộng vai trò đó trên phạm vi quốc tế và tuyên bố không hề cường điệu rằng "thế giới là cơ sở của chúng tôi". Khi đề nghị hỗ trợ được gửi qua các kênh của chính phủ Mỹ, Hannah, người chống cộng kiên quyết, rất quan tâm đến việc theo đuổi bản hợp đồng này. Ông cử một nhóm đánh giá nhỏ tới Việt Nam, bao gồm ba chủ nhiệm khoa tham gia—Edward W. Weidner (khoa học chính trị), Arthur F. Brandstatter (hành chính cảnh sát) và Charles C. Killingsworth (kinh tế)—cùng với James H. Dennison, trưởng phòng quan hệ công chúng của trường đại học và trợ lý hành chính của Hannah. Sau chuyến thăm ngắn kéo dài hai tuần, bốn thành viên nêu trên đã báo cáo vào tháng 10 năm 1954 rằng tình trạng khẩn cấp đang tồn tại ở Việt Nam và khuyến nghị nên thực hiện dự án này ngay lập tức. Báo cáo nêu rõ rằng mặc dù thời gian chuẩn bị ngắn có thể dẫn đến sai sót, nhưng "điều quan trọng là... phải thực hiện một chương trình theo cách có ít nhất cơ hội thành công hợp lý". Hannah đã phê duyệt bản hợp đồng này, thành lập Đoàn Đại học Tiểu bang Michigan, sẽ hoạt động dưới sự ủy quyền của Phái bộ Viện trợ Hoa Kỳ (USOM) thuộc Đại sứ quán Mỹ. Hannah cũng xác nhận đề nghị của Weidner rằng Fishel được bổ nhiệm làm người đứng đầu dự án, chức vụ mà Fishel từng nắm giữ từ khi bắt đầu dự án cho đến đầu năm 1958. Nhân viên MSUG có nhiều lý do để tình nguyện tham gia công tác ở nước ngoài này, mỗi lý do đều phản ánh động lực của trường đại học đối với toàn bộ dự án MSUG: như một nghĩa vụ đạo đức, hỗ trợ một quốc gia non trẻ đang gặp khó khăn; dưới dạng công cụ trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, nhằm ngăn chặn sự phát triển của “chủ nghĩa đế quốc cộng sản”; và kiểu như bài tập học thuật, để kiểm tra các khái niệm lý thuyết của họ trong một "phòng thí nghiệm" của thế giới thực. Khuyến khích trả lương "gay go" và các khoản phụ cấp khác gần gấp đôi lương của giáo sư (miễn thuế), cùng với triển vọng thăng tiến cá nhân trong hàng ngũ học viện, cũng rất thuyết phục. Giai đoạn thứ nhất: 1955–1957 Hợp đồng hai năm đầu tiên bắt đầu khi đội ngũ giáo sư và nhân viên đầu tiên đến Sài Gòn vào ngày 20 tháng 5 năm 1955. Họ phát hiện ra cả thành phố này đang bị lôi kéo vào một cuộc nổi dậy phản kháng chính phủ quốc gia của phe Bình Xuyên, với pháo kích và giao tranh trên đường phố đe dọa không chỉ nơi ở chính thức của Diệm mà còn cả khách sạn nơi nhân viên MSUG đang tạm trú. Vào lúc sự xáo trộn này lên đến cao điểm, các phòng khách sạn thường bị lục soát và cướp bóc, và một số giáo sư bị mất hết tài sản. Những chương trình học tập dự định của MSUG đã bị tạm dừng và trọng tâm của họ nhanh chóng chuyển sang cải thiện dịch vụ cảnh sát và quản lý chính quyền khu vực. Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn Mối quan tâm trước mắt của Diệm là biến động xã hội do khoảng 900.000 người chạy trốn khỏi miền Bắc cộng sản trong thời gian 300 ngày "di chuyển tự do" theo Hiệp định Genève năm 1954. Dòng người khổng lồ đòi hỏi cả dịch vụ tái định cư và xây dựng cơ sở hạ tầng, do cơ quan chính phủ có tên Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn (COMIGAL) cung cấp. MSUG đã tư vấn cho Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn đến mức trong những tháng đầu tiên của chương trình, các hoạt động theo đuổi khác đều bị gạt sang một bên. Một trong những đề xuất của MSUG có kết quả tích cực là ý tưởng phân cấp bộ máy quan liêu cho Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn. Bằng cách phân bổ các cơ quan nhỏ khắp các làng xã, Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn đã có thể cải thiện khả năng đáp ứng của các cơ quan đó. Nguồn tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng thường được Sài Gòn phê duyệt trong vòng chưa đầy hai tuần, và những cơ quan này có thể làm việc trực tiếp với giới lãnh đạo địa phương khiến họ cảm thấy rằng ý kiến đóng góp và sự tham gia của họ là quan trọng. Mặt khác, MSUG đã không thể thuyết phục Diệm về tính hợp lệ của các yêu sách đất đai của người Thượng, bộ lạc bản địa ở Tây Nguyên của Việt Nam. Hàng nghìn di dân tị nạn, với sự chấp thuận và khuyến khích của chính phủ, trở thành những người chiếm đất lâu dài trên những vùng đất "đã được dân chúng vùng cao nguyên khai phá để trồng trọt". Một phần mục đích của Diệm hòng tạo ra một "bức tường nhân đạo" gồm những người định cư có thiện cảm, chủ yếu là dân Công giáo, chống lại sự xâm nhập của cộng sản từ miền Bắc Việt Nam và Campuchia gần đó. Tuy vậy, cả người Thượng và đa số Phật tử đều phẫn nộ trước việc bị chế độ Công giáo cai trị, vốn chỉ là một nhóm tôn giáo thiểu số mà họ coi là tàn dư không hề nao núng dưới thời Pháp thuộc. Phe đối lập và sự đàn áp tàn nhẫn của Diệm đã đẩy các nhóm này tới chỗ nổi dậy hơn nữa và kết cục cuối cùng là sự cai trị của cộng sản. Học viện Quốc gia Hành chánh Ngay cả khoảng thời gian của MSU bị hoạt động hỗ trợ dân tị nạn độc chiếm, nhóm vẫn theo đuổi một phần mục tiêu học thuật của mình. Với tư cách là khía cạnh "hành chính công" trong bản hợp đồng, MSUG đã thiết kế, tài trợ và thực hiện việc mở rộng Học viện Quốc gia Hành chánh (NIA), một trường đào tạo công chức. Học viện Quốc gia Hành chánh khởi đầu là một trường đào tạo hai năm tại thành phố nghỉ dưỡng Đà Lạt vào tháng 1 năm 1953. Theo đề nghị của MSUG, trường được chuyển đến Sài Gòn và dần dần mở rộng thành chương trình bốn năm. Cùng với sự hỗ trợ trong việc phát triển cơ sở mới ở Sài Gòn và các lớp giảng dạy, MSUG đã góp phần mở rộng đáng kể thư viện NIA, mà cho đến năm 1962 chứa tới hơn 22.000 cuốn sách và tài liệu khác. Thư viện này được coi là một trong những thành công lớn nhất của MSUG và mối quan hệ liên kết với NIA là dự án tồn tại lâu nhất trong số các dự án MSUG. Tuy vậy, tính hữu dụng của thư viện bị ảnh hưởng bởi một thực tế đơn giản là hầu hết các tài liệu của nó đều viết bằng tiếng Anh, thay vì tiếng Việt hoặc tiếng Pháp, và khi kết thúc hợp đồng MSUG, thư viện đang bị đe dọa bởi khả năng tiếp cận hạn chế, bảo trì kém và thiếu nhân sự người Việt có trình độ để vào làm nhân viên tại đây. Bộ máy hành chính cảnh sát Khía cạnh có ảnh hưởng nhất và gây tranh cãi nhất về hỗ trợ kỹ thuật của MSUG là trong lĩnh vực quản lý hành chính cảnh sát. Nhóm này không chỉ cung cấp dịch vụ tư vấn và đào tạo mà còn cung cấp hỗ trợ vật chất. Nhìn chung, MSUG chịu trách nhiệm phân phối viện trợ của Hoa Kỳ thông qua USOM cho đến năm 1959, khi USOM thành lập đội ngũ cảnh sát của riêng mình. Nhân viên của MSUG đóng vai trò là nhà tư vấn để xác định nhu cầu của các nhóm cảnh sát và sau đó tự mình thực hiện việc mua sắm. Trang thiết bị bao gồm "súng ngắn ổ xoay, súng chống bạo động, đạn dược, hơi cay, xe jeep và các phương tiện khác, còng tay, thiết bị văn phòng, đèn giao thông và thiết bị liên lạc". MSUG về sau ra sức đào tạo nhân viên Việt Nam cách sử dụng và bảo trì thiết bị. Nói chung, MSUG đã đào tạo đội ngũ giảng viên để sau này họ có thể chỉ dạy những người khác; chỉ dẫn trực tiếp, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt như huấn luyện súng ngắn ổ xoay cho lực lượng bảo vệ tổng thống, "chỉ được thực hiện như một biện pháp tạm thời". Dự án quản lý cảnh sát phần lớn đã thành công vì việc đào tạo dựa trên màn trình diễn khâu thực hành nên mang tính tức thời và hữu hình hơn nhiều. Ngoài ra, các giảng viên Việt Nam do MSUG giảng dạy cũng nhanh chóng tự mình đào tạo. Đồng thời, các buổi học về nguyên tắc thủ tục và lý thuyết của cảnh sát gặp phải một số vấn đề đã hạn chế sự thành công của chúng. Rất ít giáo sư của MSUG nói được tiếng Việt hoặc tiếng Pháp, dẫn đến công việc dịch thuật bị chậm trễ và thiếu sót thông tin. Ngoài ra, các bài giảng kiểu Mỹ còn là nguyên nhân gây bất hòa cho sinh viên, tạo ra sự mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật của Pháp. (Đó cũng là một vấn đề trong các lớp NIA do nhân viên MSUG giảng dạy.) Hoạt động tư vấn và đào tạo về hành chính của cảnh sát đạt hiệu quả cao nhất với Sở Mật thám, cơ quan thực thi pháp luật quốc gia của Việt Nam, một phần vì hầu hết thiết bị đã được chuyển giao cho cơ quan này. Tương tự như vậy, các sở cảnh sát thành phố nhận được ít trang thiết bị hơn thì ít bị ảnh hưởng hơn. Sự cải thiện lớn nhất ở địa phương là việc kiểm soát giao thông ở Sài Gòn. Về phía dân vệ thì hầu như không có tác dụng gì. Dân vệ là một tổ chức bán quân sự gồm 60.000 người mà MSUG hy vọng sẽ cải tổ thành một tổ chức giống với trang phục của cảnh sát tiểu bang Hoa Kỳ, một tổ chức quen thuộc với nhóm giáo sư. Điều đó sẽ kéo theo một tổ chức chủ yếu ở nông thôn mà các thành viên sẽ sống trong cộng đồng mà họ phục vụ. Tuy nhiên, Sài Gòn và Đoàn Cố vấn Viện trợ Quân sự Mỹ ưu tiên dân vệ là lực lượng bán quân sự được trang bị vũ khí mạnh hơn, được tổ chức thành các trung đoàn và sống trong các khu đồn trú, có thể thực hiện nhiệm vụ cảnh sát quốc gia và hỗ trợ quân đội quốc gia. Do sự bế tắc, rất ít trang thiết bị mà MSUG lên kế hoạch cho dân vệ được phân phối cho đến tận năm 1959, khiến lực lượng này không được chuẩn bị khi hành động nổi dậy lớn của cộng sản bắt đầu cùng năm. Vấn đề nhân sự của MSUG Một trong những hạn chế của MSUG là trong nhiều trường hợp, trường đại học thiếu nhân lực để bố trí nhân sự cho dự án và tiếp tục các lớp học theo lịch trình ở East Lansing. Đó là trường hợp của MSUG, và nhóm buộc phải tuyển dụng rộng rãi bên ngoài trường đại học để hoàn thành hợp đồng với phía Việt Nam, thường cấp cho nhân viên mới cấp bậc học thuật (thường là trợ lý giáo sư hoặc giảng viên). Vấn đề nhân sự có lẽ có sự phân nhánh đáng kể nhất trong bộ phận quản lý cảnh sát. Mặc dù Trường Quản lý Cảnh sát và An toàn Công cộng Tiểu bang Michigan đã "được quốc tế công nhận trong thời kỳ chiến tranh lạnh", nhưng trường này thiếu kinh nghiệm trong các lĩnh vực rất cần thiết là phản gián và chống nổi dậy, và trưởng khoa Arthur Brandstatter đã phải thuê mướn nhân sự mới cho phù hợp. Vào lúc đạt đỉnh cao của dự án quản lý cảnh sát, chỉ có 4 trong số 33 cố vấn trường này từng là nhân viên của Đại học Tiểu bang Michigan trước MSUG, và nhiều người thậm chí chưa từng đến thăm cơ sở East Lansing. Hóa ra, một số cố vấn cảnh sát này cũng từng làm việc cho Cơ quan Tình báo Trung ương. Họ thành lập một nhóm riêng, gầy dựng văn phòng riêng ngoài các nhân viên hành chính cảnh sát còn lại tại trụ sở MSUG ở Sài Gòn, "và chỉ chịu trách nhiệm trước Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn". Các thành viên CIA đã làm việc chặt chẽ với một đơn vị an ninh đặc biệt của Sở Mật vụ từ năm 1955 đến năm 1959. Mặc dù trên danh nghĩa họ nằm dưới sự bảo trợ của MSUG, nhưng MSUG vẫn chưa biết cụ thể về các hoạt động của họ. (Hồ sơ MSUG "ủng hộ [sự] tranh luận rằng các đặc vụ không phải là gián điệp," nhưng hồ sơ của CIA vẫn được xếp loại mật.) Sự tồn tại của nhóm CIA không bị nhân viên MSUG che giấu; ngược lại, đó là kiến thức phổ biến đối với nhóm giáo sư nếu không được thảo luận một cách cởi mở. Tổng quan về dự án năm 1965 khá thực tế về nó. Khi MSUG "buộc USOM thành lập một bộ phận an toàn công cộng của riêng mình vào tháng 7 năm 1959[,] USOM cũng đã tiếp thu vào thời điểm này đơn vị CIA đang hoạt động trong MSUG". Tuyên bố gần như trong ngoặc đơn đó sau này sẽ cung cấp thông tin động lực cho sự phơi bày mang tính giật gân. Giai đoạn thứ hai: 1957–1959 Hợp đồng hai năm được gia hạn vào năm 1957. Giai đoạn thứ hai của MSUG được đánh dấu bằng việc mở rộng phạm vi hoạt động, đặc biệt là trong chương trình giáo dục, đồng thời các cam kết an ninh của MSUG cũng tăng lên. "Đây là thời kỳ của những nhân viên Michigan có mặt khắp nơi." Tuy nhiên, ngay cả khi hoạt động của nhóm tăng lên, với đội ngũ nhân viên bao gồm đỉnh điểm toàn dự án là 52 người Mỹ và khoảng 150 người Việt Nam, MSUG hoạt động ở mức độ ảnh hưởng giảm. Đầu năm 1958, Wesley Fishel kết thúc nhiệm kỳ trưởng chương trình và trở về Mỹ. Với sự ra đi của Fishel, bữa sáng ba tuần một lần tại nhà tổng thống mà ông thưởng thức với Diệm đã kết thúc; nếu không được tiếp cận trực tiếp với tổng thống như vậy, ảnh hưởng của MSUG với chính quyền bị hạn chế một cách đáng kể. Cùng lúc đó, chính phủ Việt Nam Cộng hòa dần dần bắt đầu củng cố quyền lực trên toàn quốc và do đó "mất đi nhiều nhiệt huyết đổi mới." Sau năm 1958, vai trò quản lý của cảnh sát gần như hoàn toàn là cố vấn, vì các giảng viên người Việt do MSUG đào tạo "lúc đó đang thực hiện chương trình riêng của họ." Trên cương vị là cố vấn, MSUG đã giúp Sở Mật thám, cơ quan này được đổi tên thành Cục Điều tra Việt Nam trong một nỗ lực nhằm giảm bớt hình ảnh tiêu cực của công chúng về cơ quan cảnh sát đặc biệt đó, nhằm thiết lập thẻ căn cước quốc gia, một chương trình được phát động vào năm 1959. Giai đoạn thứ ba: 1959–1962 Hợp đồng thứ ba bao gồm một phần nhỏ các hợp đồng trước đó; Công việc của MSUG hầu như chỉ liên quan đến NIA và các hoạt động học thuật. Một phần, đó là do USOM đã thành lập đơn vị cố vấn cảnh sát của riêng mình và đảm nhận vai trò này từ MSUG, đặc biệt là công việc với dân vệ, lực lượng đang trực tiếp chiến đấu với quân du kích cộng sản. Việc gia hạn hợp đồng năm 1959 cũng có một điều khoản cho thấy Diệm ngày càng nhạy cảm với những lời chỉ trích: nó tuyên bố rằng hồ sơ và ghi chú cá nhân của nhân viên MSUG sẽ không được sử dụng "chống lại an ninh hoặc lợi ích của Việt Nam." Quy định đó đi ngược lại với điều khoản khái niệm về tự do học thuật, và một số giáo sư đã chọn cách phớt lờ nó. Ví dụ, nhà khoa học chính trị của MSU tên Robert Scigliano từng là trợ lý giám đốc dự án vào năm 1957–1959, từng viết một bài báo vào năm 1960 về các đảng phái chính trị ở miền Nam Việt Nam, kêu gọi sự chú ý đến việc Diệm đàn áp phe đối lập. Tổng thống Diệm cảm thấy khó chịu với bài báo này đến mức ông thấy phù hợp khi đề cập đến nó với Chủ tịch MSU Hannah lúc ông này đến thăm Việt Nam vào đầu năm 1961 và nói rằng đó "không phải là thứ mà ông thích thấy nhân viên MSU viết". NIA, vào đầu năm 1961, đã đưa ra yêu cầu chính thức về việc gia hạn thêm ba năm cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1962, ngày kết thúc hợp đồng MSUG thứ ba. MSU bày tỏ sự sẵn sàng theo đuổi một dự án nhỏ chỉ tập trung vào thể chế, nhưng điều đó đã không xảy ra. Bất đồng quan điểm và sa thải Khi dự án tiến triển, sự lạc quan ban đầu của các giáo sư đã nhường chỗ cho những cân nhắc thực tế thường khiến họ thất vọng và vỡ mộng. MSUG thường xuyên nhận thấy những lời khuyên có thiện chí của mình bị bỏ qua hoàn toàn hoặc đồng ý trong thực tế; trong một ví dụ trong số nhiều ví dụ khác, Diệm đã sử dụng cơ quan đăng ký thẻ căn cước quốc gia của Sở Mật vụ hòng đàn áp những người bất đồng chính kiến với mình. Kết quả là, một số giáo sư trở về nhà sau chuyến công tác và bắt đầu viết các bài báo chỉ trích chế độ Diệm và sự can dự của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Hai lần xuất hiện trên tạp chí The New Republic năm 1961 và dẫn đến sự kết thúc của MSUG. Bài đầu tiên của Adrian Jaffe, giáo sư thỉnh giảng tiếng Anh tại Viện Đại học Sài Gòn, và Milton C. Taylor, nhà kinh tế học của MSUG, có tựa đề A Crumbling Bastion: Flattery and Lies Won't Save Vietnam và xuất hiện vào tháng 6 năm 1961. Đó là một bản cáo trạng gay gắt đối với chế độ Diệm. Mặc dù Jaffe và Taylor tỏ ra bẽn lẽn trong bài báo khi không nêu tên Fishel hay MSU, như thể mối liên kết học thuật của họ như được nêu trong dòng tít bên trang đầu tiên không phải là một sự hiển nhiên, nhưng họ không hề chỉ trích khi nói đến Diệm và gia đình ông: "Chính phủ Việt Nam là một chế độ độc tài tuyệt đối, hoàn toàn do Tổng thống nắm quyền điều hành, với sự trợ giúp của gia đình ông ta.... [Nó] ghi nhận chế độ gia đình trị thời hiện đại". Sau đó, Frank C. Child, một nhà kinh tế học của MSUG, người đã dành hai năm làm cố vấn cho dự án khi đi du lịch khắp miền Nam Việt Nam, đã viết cuốn Vietnam—The Eleventh Hour, xuất bản vào tháng 12 năm 1961. Tác phẩm này đi một bước xa hơn so với Jaffe và Taylor khi công khai gợi ý rằng "một cuộc đảo chính quân sự có thể là biện pháp duy nhất" để cứu vãn đất nước Việt Nam. Các bài báo nêu trên đã khiến Diệm tức giận đến mức ông phải đề nghị Đại học Tiểu bang Michigan kiểm duyệt mấy vị giáo sư này. Ban quản lý trường đại học tỏ ra miễn cưỡng vì làm như vậy sẽ vi phạm quyền tự do học thuật. Mặt khác, MSU không muốn đánh mất bản hợp đồng béo bở với Việt Nam Cộng hòa nên đề nghị thận trọng hơn trong việc lựa chọn nhân sự, chỉ chọn những người hứa tuân thủ các điều khoản của hợp đồng và "viết các nghiên cứu khoa học, mang tính học thuật chứ không phải là những bài báo giật gân". Tuy vậy, Diệm tỏ ra không bị dao động và đòi chấm dứt dự án này. Cả nhóm phải rời khỏi Việt Nam vào tháng 6 năm 1962. Phơi bày Bốn năm sau khi MSUG giải thể, một bài báo có tựa đề "The University on the Make", đã xuất hiện trên tạp chí Ramparts. Các biên tập viên Warren Hinckle, Robert Scheer và Sol Stern đã viết bài báo này với sự cộng tác của nhà kinh tế học Stanley K. Sheinbaum, từng là điều phối viên dự án cơ sở chính của MSUG từ năm 1957 cho đến khi ông rời trường đại học này "vì nhiều lý do" vào năm 1959. Rút ra từ các bài báo của Jaffe–Taylor và sự bất mãn của Sheinbaum với dự án, bài báo đã vẽ nên một bức chân dung sống động về Fishel như một "nhà điều hành" đầy tham vọng, có nhiều quyền lực và ảnh hưởng với Diệm hơn là Đại sứ Hoa Kỳ, MSU với tư cách là một "tổ chức mới phất lên" sẵn sàng đánh đổi tính liêm chính trong học thuật để có được vai trò nổi bật trên trường thế giới, và MSUG với tư cách là kẻ âm mưu hiểu biết và sẵn lòng với CIA. Bài viết của Ramparts chủ yếu dựa vào cuốn sách Technical Assistance in Vietnam xuất bản năm 1965, nhưng phần lớn đã bỏ qua các khía cạnh nghiên cứu học thuật và đào tạo giảng viên của dự án quản lý cảnh sát. Thay vì đề cập đến việc thành lập Học viện Cảnh sát Quốc gia và trường chỉ huy cấp cao Sở Mật thám, nơi nhân viên MSUG "lên kế hoạch chương trình giảng dạy và làm giảng viên trên lớp", thì có ngụ ý rằng dự án này không đòi hỏi nhiều điều gì hơn ngoài việc huấn luyện sử dụng súng và giải ngân mấy cái còng tay. Nó cũng tập trung chặt chẽ vào mối liên hệ của CIA và ngoại suy câu "nhóm Đại học từ chối cung cấp vỏ bọc cho đơn vị này [sau năm 1959]" có nghĩa là MSUG trước đó đã cung cấp vỏ bọc cho công việc "áo choàng và dao găm". Trong phần kết luận, bài báo đã hạ thấp toàn bộ dự án MSUG xuống thành một dòng duy nhất có tính chất kích động: "Dù sao thì một trường đại học đang mua súng làm cái quái gì vậy?" Bài báo của Ramparts đã cố tình bới móc, xuyên tạc và kịch tính hóa nhiều "sự thật" của nó; một số trong đó sau đó đã được thừa nhận là không đúng sự thật. Tuy nhiên, nó đã tiếp cận được đối tượng mục tiêu và cung cấp nguồn sinh lực mạnh mẽ cho phong trào phản chiến non trẻ. Cùng với vấn đề rõ ràng về việc CIA hoạt động dưới vỏ bọc một trường đại học, ngày càng nhiều sinh viên và giảng viên Mỹ bắt đầu đặt câu hỏi về việc sử dụng các viện giáo dục bậc cao làm công cụ cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Hậu quả Đại học Tiểu bang Michigan, giống như nhiều trường đại học Mỹ, tiếp tục ký hợp đồng cho các chương trình hỗ trợ kỹ thuật ở nước ngoài nhưng chẳng bao giờ đạt được quy mô như Đoàn Cố vấn Đại học Tiểu bang Michigan nữa. Cuối cùng, MSU nhận được rất ít lợi ích học thuật từ "chuyến phiêu lưu ở Việt Nam" của mình. Không có khóa học mới hoặc chương trình nghiên cứu đặc biệt nào được bắt đầu tại cơ sở nhà trường, và trong số 18 giáo sư được bổ nhiệm từ East Lansing, 5 người đã không quay lại trường và 4 người khác đã rời đi trong vòng hai năm kể từ khi họ trở về. Một kết quả gián tiếp là Phòng Nghiên cứu và Chương trình Quốc tế, được thành lập vào năm 1956 để cung cấp sự điều phối và hỗ trợ hành chính cho dự án Việt Nam (cũng như các dự án ở Colombia, Brasil và Okinawa). Năm 1964, cơ quan này nhận được cả một trụ sở mới mà ngày nay gọi là Trung tâm Quốc tế; tòa nhà trị giá khoảng 1,2 triệu USD và được tài trợ một phần từ số tiền thu được từ 25 triệu USD mà MSUG nhận được từ chính phủ Mỹ trong hợp đồng 7 năm tại Việt Nam (phần lớn trong số đó dùng để trang trải trang thiết bị, tiền lương, chi phí thực địa và chi phí hành chính). Trong bối cảnh phong trào phản đối chiến tranh ngày càng gia tăng, Chủ tịch John Hannah đành rời bỏ MSU vào năm 1969 để đứng đầu Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, cơ quan kế nhiệm Cơ quan Hợp tác Quốc tế đã khởi xướng nên bản hợp đồng MSUG. Mặc dù việc ông đột ngột rời bỏ MSU có thể gợi ý điều ngược lại, nhưng Hannah không nghi ngờ tính đúng đắn của dự án này. Nhiều năm sau, ông tuyên bố, "Chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy trường Đại học cần phải xin lỗi... vì những gì chúng tôi đã cố gắng làm ở Việt Nam. Tôi nghĩ rằng nếu Đại học Tiểu bang Michigan phải đối mặt với lựa chọn tương tự một lần nữa trong bối cảnh tương tự, họ có thể đồng ý hỗ trợ Chính phủ Mỹ như chúng tôi đã làm lúc đó". Người thay thế tạm thời cho Hannah trên cương vị chủ tịch là giáo sư kinh tế Walter Adams, vốn từ lâu nghi vấn về tính hiệu quả của các chương trình hỗ trợ kỹ thuật của trường đại học này và vào năm 1961, đã khuyến khích Jaffe và Taylor xuất bản cuốn A Crumbling Bastion. Giáo sư Wesley Fishel đã bị MSU coi thường vì vai trò của ông trong dự án. Mặc dù đến năm 1962, ông đã trở nên "vỡ mộng trước các chính sách độc tài của Diệm," Fishel không thể chấp nhận một bài báo ủng hộ Diệm mạnh mẽ mà ông đã viết vào năm 1959 có nhan đề "Vietnam's Democratic One-Man Rule". Những người phản đối cơ sở trường đại học này đều lên tiếng chỉ trích ông qua các tấm biểu ngữ và khẩu hiệu của họ và làm gián đoạn các lớp học của ông ấy. Tai tiếng của Fishel và sự căng thẳng khi liên tục bảo vệ hành động của mình được cho là đã góp phần gây ra các vấn đề về sức khỏe, và ông qua đời vào tháng 4 năm 1977, ở tuổi 57. Chú thích
24,464
19833008
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1t%20D%C3%A3%20chi%E1%BA%BFn%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
Cảnh sát Dã chiến Quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Cảnh sát Dã chiến Quốc gia Việt Nam Cộng hòa (viết tắt CSDC) cũng được người Pháp gọi là Police de Campagne và có nhiều tên gọi khác nhau là Cảnh sát Dã chiến Quốc gia (NPFF), người Mỹ gọi tắt là Field Police hay Field Force, là một nhánh cảnh sát bán quân sự tinh nhuệ trực thuộc Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa (CSQGVNCH). Hoạt động tích cực trong chiến tranh Việt Nam, CSDC hoạt động chặt chẽ với Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) và Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) từ năm 1966 đến năm 1975. Nguồn gốc Cảnh sát Dã chiến được chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập vào tháng 1 năm 1966 đóng vai trò là đơn vị hỗ trợ vũ trang cho Cảnh sát Quốc gia. Vai trò Nhiệm vụ do CSDC thực hiện đã vượt xa nhiệm vụ thông thường của lực lượng cảnh sát dân sự, có chức năng phục vụ như một nhánh khác thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, được tổ chức và huấn luyện cho các hoạt động bán quân sự trên chiến trường ở cả nông thôn và thành thị. Chủ yếu họ được giao nhiệm vụ chống du kích, chống nổi dậy, công tác thu thập tin tình báo. Các đại đội và tiểu đoàn CSDC cũng được tuyển mộ vào nhiều nhiệm vụ khác như bảo vệ công trình công cộng quan trọng, bảo vệ VIP, an ninh công cộng, phản gián, kiểm soát bạo loạn, khoanh vùng và tìm kiếm, hành quân tác chiến trong rừng, núi và đô thị. Từ năm 1967 đến năm 1972, CSDC đã tham gia sâu vào Chiến dịch Phượng Hoàng () do CIA điều hành gây nhiều tranh cãi, tham gia tích cực vào quá trình "vô hiệu hóa" – thường bao gồm các vụ bắt giữ tùy tiện mà không bị buộc tội, tra tấn thường xuyên, và hành quyết phi pháp – những thành viên bị nghi ngờ thuộc cơ sở hạ tầng dân sự hoặc "chính quyền ngầm" của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN). Thành phần Thành viên CSDC thường là Cảnh sát Quốc gia tình nguyện tham gia lực lượng dã chiến, mặc dù đơn vị này cũng tiếp nhận quân nhân được thuyên chuyển hoặc giải ngũ khỏi Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH). Về sau CSDC còn tiếp nhận cả các cựu thành viên của Lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng hòa (LLDBVNCH) sau khi bị giải thể vào tháng 12 năm 1970. Cơ cấu và tổ chức Bộ Chỉ huy Khối Cảnh sát Dã chiến báo cáo trực tiếp lệnh hành quân cho Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia và được bố trí về Tổng nha CSQG tại Sài Gòn. Với tên gọi Đơn vị Hỗ trợ Vũ trang, đến năm 1969, Bộ Chỉ huy Khối Cảnh sát Dã chiến phụ trách các đơn vị Cảnh sát dã chiến và Cảnh sát Sông ngòi và Ven biển. Đổi tên thành Đơn vị Phản ứng năm 1972, Bộ Chỉ huy Khối Cảnh sát Dã chiến sáp nhập Lực lượng Điều tra Tỉnh và đến năm 1973 lại đổi tên thành Phòng Điều hành Di động. Đơn vị cơ bản của Cảnh sát Dã chiến là đại đội được biên chế thành ban chỉ huy đại đội gồm 24 người và một số trung đội chiến đấu 40 người, mỗi trung đội bao gồm những tiểu đội 10 người. Cho đến năm 1968, một đại đội được phân công phụ trách từng tỉnh, thành phố chính và bố trí một số trung đội từ hai đến 13 trung đội tùy theo số quận, huyện. Ví dụ: có thể chỉ định tối đa năm huyện cho một đại đội, nhưng nếu một tỉnh hoặc thị xã có hơn sáu huyện thì có thể triển khai hai đại đội. Sau năm 1969, một cuộc tái tổ chức lớn được thực hiện, với các đại đội cấp tỉnh được mở rộng thành các tiểu đoàn. Đến tháng 8 năm 1971, lực lượng Cảnh sát Dã chiến có tổng cộng 16.500 sĩ quan và quân nhân được biên chế thành 44 tiểu đoàn cấp tỉnh gồm khoảng 90 đại đội, 242 trung đội cấp huyện và một trung đội kỵ binh độc lập. Hai đại đội độc lập gồm bốn trung đội, mỗi đại đội lần lượt đóng tại Vũng Tàu và Đà Nẵng, hai thành phố cảng tự trị có lực lượng cảnh sát thành phố riêng biệt với tỉnh nơi họ đóng trụ sở. Để cung cấp sự giám sát và hỗ trợ cho tất cả các đơn vị Cảnh sát Dã chiến cấp tỉnh và thị xã này, Ban Chỉ huy Đại đội đều được đặt tại mỗi Quân đoàn trong số bốn Quân đoàn trên toàn quốc. Một đại đội Cảnh sát Dã chiến thường được một Thanh tra viên (Đại úy sau năm 1971) chỉ huy, viên chức này lại chịu sự chỉ huy tác chiến của Trưởng Công an Tỉnh trong khi các trung đội được phân công về các huyện đều nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Trưởng Công an Huyện trực tiếp chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng Chính trị Huyện. Thiết giáp Là lực lượng chủ yếu là bộ binh hạng nhẹ, Cảnh sát Dã chiến vận hành một trung đội kỵ binh độc lập duy nhất được cung cấp 8 chiếc xe bọc thép hạng nhẹ M8 Greyhound cổ điển của Mỹ trong Thế chiến thứ hai. Đóng quân ngay tại thủ đô Sài Gòn, đơn vị này phụ trách an ninh tòa nhà Ngân hàng Quốc gia và an ninh vòng đai Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia gần đó cũng như các khu vực xung quanh. Đơn vị này chuyên tuần tra trong khu vực đô thị và tác chiến cơ động. Biệt đoàn Ngoài ra, Cảnh sát Dã chiến còn duy trì hai Biệt đoàn với tổng số 5.000 người bao gồm Biệt đoàn 5 CSDC và Biệt đoàn 222 CSDC, giúp Cảnh sát Quốc gia đủ khả năng tham gia độc lập vào các hành động phòng thủ hoặc tấn công tùy theo nhiệm vụ phòng thủ tác chiến của lực lượng này. Đóng quân ngay tại thủ đô Sài Gòn, Biệt đoàn 5 trên thực tế là một tiểu đoàn mở rộng kể từ khi được tung ra chiến trường, ngoài một ban chỉ huy đại đội, 12 đến 14 đại đội chiến đấu, mỗi đại đội gồm bốn trung đội. Tiểu đoàn hoạt động trên địa bàn rộng lớn hơn là vùng Sài Gòn-Gia Định, được giao trực thuộc Tổng nha Cảnh sát Thành phố Sài Gòn đảm trách nhiệm vụ nội an, phòng vệ thủ đô. Trong trận Tết Mậu Thân tháng 1 năm 1968, đơn vị đã cam kết bảo vệ Phủ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Dinh Độc Lập cùng với các đơn vị Cảnh sát Quốc gia và QLVNCH khác, nổi bật trong các trận đánh giành lại Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt, Chợ Lớn, Trường đua Phú Thọ và Nhà thờ Cha Tam, khiến cho các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải chịu tổn thất nặng nề khi tấn công vào đây. Cũng đóng quân tại Sài Gòn, Biệt đoàn 222, một tiểu đoàn nhỏ hơn chỉ có sáu đại đội chiến đấu, lần lượt được giao cho Tổng dự trữ của Cảnh sát Quốc gia như một đơn vị phản ứng nhanh có thể được triển khai trên toàn quốc, được giao nhiệm vụ cụ thể và nhiệm vụ tăng cường. Tiến vào Sài Gòn trong dịp Tết Mậu Thân 1968, Cảnh sát Dã chiến thuộc Biệt đoàn 222 đã đánh đuổi thành công toán đặc công Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang cố thủ trong tòa nhà Đài Phát thanh Quốc gia, nằm cách Đại sứ quán Mỹ vài trăm mét mà còn chiến đấu ở nơi khác. Từ năm 1968 đến năm 1975, các đại đội chiến đấu của Tiểu đoàn được triển khai tại nhiều thời điểm và địa điểm khác nhau trên khắp cả nước, tham gia hoạt động phòng thủ và tấn công cùng với những đơn vị Cảnh sát Quốc gia hoặc Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Tuyên Đức, Gia Định, Long An, Biên Hòa và đảo Phú Quốc. Khi thị xã An Lộc bị ba sư đoàn thiết giáp của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) bao vây vào tháng 4 năm 1972 trong Chiến dịch Lễ Phục Sinh, Biệt đoàn 222 đã được điều động đến để tăng cường phòng thủ thành phố và trụ vững thành công trước những đợt tấn công liên tục của xe tăng địch. Trinh sát Đặc biệt Nhiệm vụ trinh sát và thám báo do các toán viên chiến đấu thuộc đội Trinh sát Đặc biệt thực hiện. Được tuyển mộ từ các dân tộc thiểu số như Khmer Krom, Chăm, Nùng hoặc Thượng, họ được tổ chức thành các đơn vị cỡ trung đội trực thuộc mỗi đại đội Cảnh sát Dã chiến. Họ chuyên về leo dốc, chống phục kích, xuất kích bằng máy bay, bắn chiến thuật nhanh, quan sát phía trước, ra hiệu bằng tay và cánh tay, chiến đấu tay đôi, xâm nhập khu vực bằng trực thăng vận, chiến tranh rừng rậm và núi non, sống ngoài rừng rậm và núi non, thám báo tầm xa, chiến thuật tác chiến do thám, chiến thuật tác chiến đơn vị nhỏ, y tế khẩn cấp chiến thuật, liên lạc vô tuyến chiến thuật, chiến thuật theo dõi, chiến thuật tác chiến phi chính quy và sử dụng bản đồ cùng la bàn. Huấn luyện Nhân viên Cảnh sát Quốc gia tình nguyện tham gia Cảnh sát Dã chiến, ngoài việc được hướng dẫn cơ bản về nghiệp vụ cảnh sát, còn được đào tạo nâng cao về bán quân sự. Sĩ quan tập sự vừa tốt nghiệp Học viện Cảnh sát Quốc gia hoặc Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt phải trải qua một khóa hướng dẫn toàn diện về chiến thuật tác chiến tại Trường Bộ binh Thủ Ðức, trong khi nhân viên cảnh sát sắc phục đã hoàn thành khóa huấn luyện cơ bản tại Rạch Dừa cũng tham dự một chương trình tương tự tại Trung tâm Huấn luyện Chiến đấu của QLVNCH và Trường Hạ sĩ quan cùng đặt tại Đà Lạt. Trong giai đoạn này, tất cả các khóa huấn luyện chiến đấu đều được thực hiện ở cấp tiểu đội và trung đội, giúp các tân binh có được khả năng cơ động chiến thuật tốt trên thực địa. Sau đó, Cảnh sát Dã chiến tương lai – bao gồm cả sĩ quan và hạ sĩ quan – đã trải qua thêm 8 tuần huấn luyện về kỹ năng bán quân sự Cảnh sát Dã chiến tại Trung tâm Huấn luyện Cảnh sát Quốc gia Mã Lai Á và Phi Luật Tân. Hướng dẫn bao gồm các chủ đề như kỹ thuật bảo vệ tầm gần, chiến đấu và tuần tra trong khu vực đô thị, chống phục kích, kiểm soát đám đông, sơ tán, sơ cứu, tín hiệu tay và cánh tay, chiến đấu tay đôi, xâm nhập khu vực bằng trực thăng vận, thu thập thông tin tình báo, hoạt động thu thập thông tin tình báo, chiến thuật chiến đấu trong rừng núi, thực thi pháp luật, sống ngoài rừng rậm, liên lạc vô tuyến, chiến thuật chiến đấu đột kích và trinh sát, kỹ thuật kiểm soát bạo động, chiến thuật theo dõi và sử dụng bản đồ cùng la bàn. Để nâng cấp khả năng của mình, các tiểu đội và trung đội được định kỳ đưa trở lại các trung tâm huấn luyện này để tham gia khóa huấn luyện bồi dưỡng đơn vị trong sáu tuần, nhưng đối với hầu hết đại đội và tiểu đoàn Cảnh sát Dã chiến đóng tại các tỉnh thành, khóa bồi dưỡng của họ thực sự diễn ra tại những trung tâm huấn luyện khu vực. Huấn luyện quân sự "tại chỗ" bổ sung được Đội Huấn luyện Cơ động Mỹ cung cấp cho các đơn vị Cảnh sát Dã chiến trên chiến trường hoặc do các cố vấn Úc từ Đội Huấn luyện Quân đội Úc tại Việt Nam (AATTV) phụ trách. Học viên sĩ quan được tuyển chọn còn sang tham dự các khóa học nâng cao về giảng dạy chuyên ngành cảnh sát ở Trung tâm Huấn luyện Đặc biệt Cảnh sát Dã chiến thuộc Cảnh sát Hoàng gia Malaysia () tại Kentonmen, Ulu Kinta, Perak, Malaysia; sau khi tốt nghiệp, một số sĩ quan Cảnh sát Quốc gia mới này khi trở về nước đều được bổ nhiệm làm giảng viên Cảnh sát Dã chiến tại các trung tâm huấn luyện cảnh sát để truyền thụ kỹ năng cho tân binh Cảnh sát Dã chiến. Vũ khí và trang bị Cảnh sát Dã chiến được trang bị vũ khí hạng nhẹ theo tiêu chuẩn quân sự, nhưng trang bị vũ khí hạng nặng lại theo tiêu chuẩn cảnh sát thông thường. Ban đầu, hầu hết vũ khí của lực lượng này đều là đồ cũ lấy từ Thế chiến thứ hai/Chiến tranh Triều Tiên – vũ khí tiêu chuẩn là súng trường bán tự động hạng nặng M1 Garand, được bổ sung thêm súng carbine M1/M2, súng tiểu liên M3 và Thompson cùng súng máy hạng nhẹ BAR. Từ năm 1969, súng trường, súng carbine và súng tiểu liên bắt đầu được thay thế bằng súng trường M16 và mặc dù loại súng này trở thành vũ khí chính của Cảnh sát Dã chiến nhưng nó chưa bao giờ thay thế hoàn toàn các loại vũ khí trước đó. Ngoài ra, mỗi trung đội còn có một khẩu súng phóng lựu M79 và một súng máy hạng trung cỡ nòng 0,30. 24 khẩu súng shotgun đã có sẵn trong kho vũ khí của đại đội. Cảnh sát Dã chiến không có hệ thống vũ khí do tổ đội vận hành như súng cối hoặc bất kỳ vũ khí hỏa lực gián tiếp nào khác. Súng ngắn ổ xoay M1917 Súng ngắn ổ xoay Smith & Wesson Model 10 Súng ngắn ổ xoay mũi hếch đặc biệt Smith & Wesson SW2 Bodyguard .38 Súng ngắn ổ xoay mũi hếch đặc biệt Colt Cobra .38 Súng ngắn Smith & Wesson Model 39 Súng ngắn tự động Colt.45 M1911A1 Súng trường chiến đấu M1 Garand Súng carbine M1 Súng carbine M2 Súng tiểu liên "Grease Gun" M3 và M3A1 Súng tiểu liên IMI Uzi Súng tiểu liên M1A1 Thompson Súng trường tấn công M16A1 Shotgun dạng trượt Ithaca Model 37 Shotgun dạng trượt Stevens Model 77E Súng máy hạng nhẹ M1918A2 BAR Súng máy M60 Súng máy hạng trung Browning M1919A4 .30 Cal Súng phóng lựu M79 Phương tiện Xe jeep Willys MB Xe jeep Willys M38 MC Xe tải đa dụng Dodge M37 Xe tải đa dụng Kaiser Jeep M715 Xe bọc thép hạng nhẹ M8 Greyhound Quân phục và phù hiệu Nhân viên Cảnh sát Dã chiến ban đầu được cấp quân phục màu xanh ô liu tiêu chuẩn giống như các ngành Cảnh sát Quốc gia khác, nhưng từ năm 1967, họ bắt đầu nhận được trang phục ngụy trang 'Con Báo' mới, được người Việt mệnh danh là đồng phục 'hoa màu đất'. Đây là bản sao được sản xuất tại địa phương của mẫu ngụy trang Mitchell 'Clouds' do người Mỹ thiết kế, kết hợp các đốm hình đám mây màu nâu sẫm, màu nâu đỏ, màu be, màu nâu nhạt và màu đất son chồng lên nhau trên nền màu rám nắng. Áo khoác dã chiến M-1951 của Mỹ màu xanh ô liu hoặc bản sao trong nước bằng vải ngụy trang được cấp cho các đại đội Cảnh sát Dã chiến hoạt động trong môi trường miền núi lạnh lẽo vùng Tây Nguyên. Mũ sắt Cảnh sát Dã chiến được phân biệt với phần còn lại của Cảnh sát Quốc gia bằng một chiếc mũ nồi đen làm từ một mảnh len duy nhất gắn với một dải vành bằng da màu đen có hai dây buộc ở phía sau. Mũ nồi thường được đúc cẩn thận để có hình dạng nhọn hoặc 'mào hình tổ ong', rất nhiều quân nhân Việt Nam Cộng hòa chịu ảnh hưởng loại mũ này vì nó được cho là mang lại cho người đội một dáng người oai phong hơn và sự quyến rũ của 'lính xung kích' hay 'biệt kích' hung hãn. Nó được đeo kiểu Pháp kéo sang trái, với huy hiệu mũ Cảnh sát Quốc gia đặt phía trên mắt phải. Ban đầu dự định được mặc cùng với đồng phục cảnh sát quốc gia theo quy định trong những dịp trang trọng, mũ nồi đôi khi được nhìn thấy trên thực địa nhưng nó thường được thay thế bằng mũ rừng rằn ri và mũ bảo hiểm thép M-1 kiểu 1964 của Mỹ, chiếc mũ sau được đội cùng với lớp vỏ ngụy trang hình 'Mây'. Một chiếc mũ bảo hiểm M-1 của Mỹ được sơn màu đen bóng, có sọc trắng đỏ ở hai bên và có chữ "TC" (Tuấn Tra) mà Cảnh sát Dã chiến đội vào khi phụ trách tuần tra hoặc kiểm soát bạo động ở khu vực thành thị. Giày trận Giày trận bằng da màu đen được cung cấp bởi người Mỹ đã phát hành cả mẫu M-1962 'McNamara' đầu tiên của Quân đội Mỹ và mẫu M-1967 với đế cao su hoa văn 'gợn sóng', sản phẩm tiêu chuẩn của QLVNCH. Trên chiến trường, cảnh sát dã chiến thường mang loại ủng đi rừng được đánh giá cao của Quân đội Mỹ và ủng nhiệt đới Bata bằng vải bạt màu đen hoặc xanh lá cây do Việt Nam sản xuất, được thay thế bằng dép da hoặc nhựa thương mại và cao su khi ở trong đồn. Một số cá nhân có khóa kéo bên trong đôi bốt đi rừng của họ để có thể buộc cố định theo kiểu 'trên không' lạ mắt, trong khi người mang có thể xỏ đôi bốt vào một cách nhanh chóng và dễ dàng bằng cách sử dụng khóa kéo. Phù hiệu Về việc đặt phù hiệu, Cảnh sát Dã chiến có một hệ thống riêng, ban đầu được điều chỉnh từ đồng phục của họ. Hầu hết Cảnh sát Dã chiến đều không đeo phù hiệu trên đồng phục ngụy trang dã chiến khi đang lâm trận, hoặc đôi khi chỉ có phù hiệu đại đội của họ bằng phiên bản vải hoặc kim loại trong móc treo túi theo kiểu Pháp treo ở túi áo sơ mi bên phải. Đội Trinh sát Đặc biệt được cấp một miếng vá tròn thêu màu đen viền đỏ, với chữ "CSQG" và "TSDB" màu đỏ và lưỡi lê hình thanh kiếm có cánh chĩa xuống. Chú thích
14,743
19833010
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thirteen%20Lives
Thirteen Lives
Thirteen Lives là một bộ phim tiểu sử của Mỹ được ra mắt năm 2022, dựa trên cuộc giải cứu hang Tham Luang, do Ron Howard đạo diễn và sản xuất và được viết bởi William Nicholson. Phim có sự tham gia của Viggo Mortensen, Colin Farrell, Joel Edgerton và Tom Bateman. Thirteen Lives được phát hành tại một số rạp chọn lọc vào ngày 29 tháng 7 năm 2022, bởi United Artists Releasing, và bắt đầu phát trực tuyến trên nền tảng Amazon Prime Video vào ngày 5 tháng 8 năm 2022. Phim nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình. Cốt truyện Diễn viên -Viggo Mortensen trong vai Richard Stanton -Colin Farrell trong vai John Volanthen -Joel Edgerton trong vai Richard Harris -Tom Bateman trong vai Chris Jewell -Pattarakorn Tangsupakul trong vai Buahom -Sukollawat Kanarot trong vai Saman Kunan -Teerapat Sajakul trong vai Captain Arnont -Sahajak Boonthanakit trong vai Governor Narongsak Osatanakorn -Vithaya Pansringarm trong vai General Anupong Paochinda -Teeradon Supapunpinyo trong vai Ekkaphon Chanthawong -Nophand Boonyai trong vai Thanet Natisri -Paul Gleeson trong vai Jason Mallinson -Lewis Fitz-Gerald trong vai Vernon Unsworth -Peter Knight trong vai Police Captain Bas -U Gambira trong vai Kruba Boonchum -Josh Helman trong vai Major Hodges Sản xuất Vào tháng 4 năm 2020, đã có thông báo rằng Ron Howard sẽ đạo diễn bộ phim, với William Nicholson viết kịch bản. Metro-Goldwyn-Mayer acquired the rights to the film the following month. Vào tháng 3 năm 2021, Viggo Mortensen, Colin Farrell và Joel Edgerton nằm trong số dàn diễn viên được công bố sẽ đóng vai chính trong phim. Quá trình quay phim bắt đầu vào ngày 29 tháng 3 năm 2021, tại Úc, và cũng bao gồm những cảnh quay ở Thái Lan. Nhạc gốc của phim được sáng tác bởi Benjamin Wallfisch. Ra mắt Thirteen Lives được ra mắt bởi United Artists Releasing tại một số rạp chọn lọc vào ngày 29 tháng 7 năm 2022, trước khi phát trực tuyến trên Amazon Prime Video vào ngày 5 tháng 8. Ban đầu bộ phim được lên kế hoạch phát hành đầy đủ tại rạp bởi United Artists Releasing vào ngày 15 tháng 4 năm 2022, và sau đó được hoãn lại đến ngày 18 tháng 11 để đáp lại buổi chiếu thử tốt nhất trong lịch sử của MGM. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 2022, bộ phim đã được dời đến ngày phát hành hiện tại do việc Amazon mua lại MGM vào tháng 3. Âm nhạc Khi Howard tiếp cận người cộng tác quen thuộc của anh, Hans Zimmer để ghi điểm, người sau đã đặc biệt đề cử người bảo trợ của anh Benjamin Wallfisch cho công việc này. Wallfisch đã chuẩn bị sẵn một bộ phim dài 20 phút trước khi Howard bắt đầu quay ở Thái Lan. Sự đón nhân Trên trang website của Rotten Tomatoes, phim có tỷ lệ tán thành là 86% dựa trên 178 bài phê bình, với điểm trung bình là 7,3/10. Sự đồng thuận của trang web cho biết, "Được sự chỉ đạo ổn định bởi đạo diễn Ron Howard, Thirteen Lives mang đến một vở kịch chưa hoàn chỉnh nhưng vẫn hấp dẫn về một câu chuyện có thật đáng kinh ngạc." Còn trên Metacritic, bộ phim có điểm trung bình là 66/100 dựa trên 40 nhà phê bình, cho thấy "các bài đánh giá nhìn chung là thuận lợi". Giải thưởng và đề cử
3,047
19833012
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n%20gi%C3%A1o%20%E1%BB%9F%20Venezuela
Tôn giáo ở Venezuela
Tôn giáo ở Venezuela chỉ về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng tại Venezuela. Venezuela không có một tôn giáo chính thức do là một quốc gia thế tục và Hiến pháp Venezuela quy định đảm bảo quyền tự do tôn giáo. Về cơ cấu thì Cơ đốc giáo nói chung là tôn giáo lớn nhất ở Venezuela, trong đó Công giáo có nhiều tín đồ nhất. Công giáo La Mã là đức tin thống trị và có sức lan tỏa sâu rộng về mặt văn hóa và xã hội. Trước khi các nhà truyền giáo Tây Ban Nha đến, người da đỏ bản địa cư trú trên lãnh thổ Venezuela ngày nay đã thực hành nhiều tín ngưỡng truyền thống khác nhau. Giáo hội Công giáo ở Venezuela tập trung chủ yếu vào việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria, điều này được minh họa bằng những nhân vật như Đức Mẹ Coromoto ở bang Portuguesa, Virgen del Valle ở Nueva Esparta và Đức mẹ Mân Côi Chiquinquirá ở phần phía tây Venezuela. Tổng quan Venezuela giống như hầu hết các quốc gia Nam Mỹ, là một quốc gia theo Công giáo Rôma. Ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo ở nước này có từ thời thực dân Tây Ban Nha. Theo ước tính của chính phủ, 92% dân số trên danh nghĩa là tín hữu Công giáo Rôma và còn lại 8% là Tin Lành, các tôn giáo khác, hoặc vô thần. Các ước tính của Hội đồng Tin Lành Venezuela cho rằng Giáo hội Tin Lành chiếm 10% dân số. Có những cộng đồng Hồi giáo và Do Thái giáo nhỏ nhưng có ảnh hưởng. Các cộng đồng Hồi giáo của hơn 100.000 người tập trung ở những người gốc Lebanon và Syria hiện sống ở các khu vực như Nueva Esparta, Punto Fijo và khu vực Caracas. Các con số thuộc cộng đồng Do Thái giáo là khoảng 13.000 tín đồ và chủ yếu tập trung ở Caracas. Hiện nay có khoảng 153.000 tín đồ Mormon phần lớn ở tại Caracas. Theo điều tra dân số quốc gia năm 2011, ước tính có khoảng 71% dân số được xác định là Công giáo. Hơn 17% người Venezuela được xác định là theo đạo Tin lành và 9% được xác định là không liên kết với bất kỳ tôn giáo nào. Phần còn lại của dân số xác định với một số tôn giáo khác (bao gồm cả tín ngưỡng dân gian khoảng 1%), mặc dù nhiều Cơ đốc nhân tự nhận mình cũng có thể thực hành các nghi lễ dựa trên tín ngưỡng dân gian. Các ước tính chỉ ra rằng sự liên kết tôn giáo với Nhà thờ Công giáo đang giảm dần khi tỷ lệ người Venezuela theo đạo Tin lành hoặc không theo tôn giáo nào tăng lên mỗi năm. Nhìn chung, thế hệ trẻ của người Venezuela có xu hướng ít tôn giáo hơn những thế hệ lớn tuổi hơn. Tôn giáo và Cơ đốc giáo không phải là một chủ đề quá nhạy cảm ở Venezuela. Tuy nhiên, nói chung là không thích hợp để công khai hỏi về tín ngưỡng dân gian vì mức độ mê tín thận trọng có thể bao quanh những chủ đề này. Công giáo Đạo Công giáo du nhập vào Venezuela bởi các nhà truyền giáo Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ XVI, cụ thể là vào năm 1515 ở Nueva Toledo). Giáo hội Công giáo đã từng là một tổ chức có sức mạnh lịch sử về văn hóa và chính trị của nước này. Bản chất ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo trong nền chính trị Venezuela đã thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên, nhiều người Venezuela coi Công giáo là một phần không thể thiếu trong bản sắc văn hóa, được truyền qua gia đình và quốc gia như một phần di sản. Mọi người nói chung tổ chức các ngày lễ và lễ hội Công giáo vì văn hóa và lịch của đất nước phản ánh tôn giáo. Hầu hết người Venezuela ăn mừng lễ Phục sinh và Giáng sinh. Hơn nữa, lời chào thông thường giữa hầu hết người Venezuela và gia đình của họ là “Bendición” bắt nguồn từ truyền thống Công giáo và được dịch một cách lỏng lẻo thành “phước lành”. Sự tuân thủ các thực hành và tín ngưỡng Công giáo và mức độ bảo thủ khác nhau trên khắp đất nước. Công giáo có xu hướng mạnh nhất ở vùng Andean. Theo The World Factbook, năm 2009, 96% dân số là người Công giáo La Mã, năm 2018, Latinobarómetro ước tính 66% dân số là người Công giáo La Mã. Một cuộc thăm dò năm 2014 do Trung tâm Nghiên cứu Pew thực hiện cho biết chỉ 10% người Venezuela xác định là Công giáo nói rằng tôn giáo rất quan trọng đối với cuộc sống của họ, và họ cầu nguyện hàng ngày cũng như đi lễ hàng tuần. Hơn nữa, nhiều ý kiến xã hội đương thời của mọi người đã khác xa với các giáo lý chính thức của Giáo hội Công giáo. Điều này cho thấy rằng phần lớn người Venezuela đang thế tục trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày của họ. Hơn nữa, sự phát triển của các tôn giáo Tin lành truyền đạo trong những năm gần đây đã làm cho Giáo hội Công giáo mất đi sự ủng hộ. Tuy nhiên, nhiều người Venezuela vẫn sùng đạo, cầu nguyện hàng ngày và thường xuyên đi lễ. Dưới thời của Hugo Chávez rất xem nhẹ vai trò của các giám mục của Giáo hội Công giáo trong xã hội Venezuela. Tiếp theo đó, Giáo hội Công giáo Venezuela đã lên tiếng phản đối chính quyền Maduro nhưng Giáo hoàng Francis đã lên tiếng trung lập trong cuộc khủng hoảng tổng thống Venezuela năm 2019. Tin lành Đạo Tin lành đã trở nên phổ biến trong Công giáo Mỹ La-tinh. Tính đến năm 2011, đã có 17% người Venezuela được xác định là theo đạo Tin lành. Các cuộc chuyển đổi từ Công giáo sang các truyền thống Tin lành đã xảy ra trong thế hệ gần đây nhất. Sự gia tăng này có thể là do một số yếu tố, chẳng hạn như sự mất lòng tin ngày càng tăng đối với Giáo hội Công giáo, cũng như sự thành công của các nhóm truyền giáo Ngũ tuần (đặc biệt là những nhóm tiếp cận với người Venezuela bản địa và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội), nhiều người dân nông thôn Venezuela trở nên bất bình với Giáo hội Công giáo khi chuyển đến các cộng đồng đô thị mới bên ngoài. Đạo Tin lành (đặc biệt là truyền thống Ngũ tuần) đã có thể thu hẹp khoảng cách đối với một số người trong các cộng đồng mới đô thị hóa này. Do đó, nó đặc biệt phổ biến ở Barrios (khu ổ chuột ngoài đô thị). Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su Christ (Mormon) tuyên bố có 173.125 thành viên (tháng 4 năm 2022) chủ yếu ở trong và xung quanh Caracas. Nhân Chứng Giê-hô-va cho biết có 136.542 người công bố đang hoạt động, hợp nhất trong 1.734 hội thánh; có 319.962 người tham dự Bữa Tiệc Thánh hàng năm của Chúa vào năm 2020. Tín ngưỡng Trước khi chịu sự đô hộ của Đế chế Tây Ban Nha và sự ảnh hưởng của Cơ Đốc giáo thì người da đỏ bản địa ở đây cũng có hệ thống tôn giáo bản địa truyền thống. Hiện nay, một số tín ngưỡng dân gian đang trở nên phổ biến ở Venezuela trong tất cả các tầng lớp xã hội. Những điều này thường kết hợp các yếu tố của ma thuật, ma thuật và tâm linh Thời đại Mới (New Age) với các truyền thống Công giáo chẳng hạn như việc thờ cúng các vị thánh. Vì chúng có những điểm tương đồng với các thực hành của Cơ đốc giáo, chúng thường thu hút những người Công giáo suốt đời tin rằng họ đang tham gia vào một biến thể của cùng một đức tin với các nghi lễ khác nhau. Những người theo đạo thường thực hành các truyền thống như vậy cùng với Cơ đốc giáo và tiếp tục tự nhận mình là Công giáo hoặc Tin lành, chẵng hạn như trước tiên họ có thể thực hiện một lời cầu nguyện Cơ đốc, sau đó là một hình thức thờ phượng khác. Giáo hội Công giáo đã tuyên bố họ mong muốn duy trì sự phân biệt giữa các tôn giáo dân gian và Công giáo. Những tín ngưỡng dân gian được biết đến nhiều nhất là Santería và Espiritismo. Một số người tin rằng những người theo Santería và Espiitismo chiếm tới 30% dân số Venezuela. Tuy nhiên, rất khó xác định số lượng người theo dõi vì nhiều người giữ bí mật về việc thực hành của họ, đôi khi giấu kín với gia đình. -Santería: Là một truyền thống tôn giáo có nguồn gốc từ châu Phi đã được du nhập vào Cuba bởi người Yoruba và lan rộng khắp Mỹ La-tinh và Venezuela kể từ năm 2008. Nó kết hợp các khía cạnh của tôn giáo Yoruba, Cơ Đốc giáo, truyền thống Voodoo của Haiti và ma thuật. Santería thu hút tín đồ từ mọi tầng lớp và đặc biệt phổ biến ở các thành phố thuộc tầng lớp trung lưu. Các nghi lễ ở Santeria bao gồm việc giết thịt và dâng cúng gà trống, gà cúng hoặc hiến tế dê. -Espiitismo: Là tín ngưỡng dựa trên niềm tin phổ biến rằng những linh hồn tốt và xấu có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, may mắn và các khía cạnh khác của cuộc sống con người. Một trong những hình thức phổ biến nhất của việc thực hành thờ cúng Espiitismo là thờ một phụ nữ Venezuela thế kỷ XVI có tên là María Lionza, người được cho là nữ thần cai quản vũ trụ, tình yêu và hòa bình. Địa vị của cô như một nữ thần không được coi là trái ngược với Thiên Chúa của Cơ đốc giáo, cả hai thường được tôn thờ cùng với nhau. Phong trào tôn giáo Maria Lionza rất chú trọng đến việc thực hiện các nghi lễ, chẳng hạn như hiến tế động vật, nghi lễ phù thủy, triệu hồi linh hồn và người chết để đạt được những kết quả cụ thể. Các phong trào tôn giáo như vậy được mọi tầng lớp xã hội biết đến nhưng đặc biệt phổ biến ở các cộng đồng nghèo hơn, bị gạt ra bên lề xã hội ở Venezuela. Chú thích Tôn giáo
8,506
19833034
https://vi.wikipedia.org/wiki/Grand%20Theft%20Auto%3A%20The%20Ballad%20of%20Gay%20Tony
Grand Theft Auto: The Ballad of Gay Tony
Grand Theft Auto: The Ballad of Gay Tony là bản mở rộng thứ hai trong số hai phần dành cho tựa game năm 2008 Grand Theft Auto IV, do hãng Rockstar North phát triển và được Rockstar Games phát hành. Trò chơi được phát hành riêng cho hệ máy Xbox 360 vào ngày 29 tháng 10 năm 2009, và cho PlayStation 3 cùng Windows vào ngày 13 tháng 4 năm 2010, như một phần của phiên bản dựa trên đĩa game độc lập mang tên Grand Theft Auto: Episodes from Liberty City, còn chứa cả bản Grand Theft Auto: The Lost and Damned và không cần phải chơi tựa game gốc. Microsoft đã thêm Episodes from Liberty City vào danh sách tương thích ngược cho nền tảng Xbox One vào tháng 2 năm 2017. Lấy bối cảnh đồng thời với các sự kiện của Grand Theft Auto IV và The Lost and Damned, The Ballad of Gay Tony theo chân Luis Fernando Lopez, cựu vệ sĩ buôn ma túy người Mỹ gốc Dominica và là bạn thân nhất của Anthony "Gay Tony" Prince, tay trùm quản lý hộp đêm và người có địa vị cao trong xã hội ở Liberty City. Cốt truyện chính của phần này tập trung vào những nỗ lực của Luis hòng giúp Tony vượt qua nhiều vấn đề khác nhau, bao gồm ma túy, nợ nần, tranh chấp với các gia đình tội phạm Mafia và những nỗ lực nhằm vào mạng sống của cả hai. Nó cũng kết nối những kết thúc lỏng lẻo từ Grand Theft Auto IV và The Lost and Damned liên quan đến cốt truyện bán kim cương kết nối cả ba phiên bản. Trò chơi nhận được phần lớn đánh giá tích cực từ giới phê bình và được coi là một trong những gói nội dung tải về hay nhất mọi thời đại. Cốt truyện Năm 2008, sau khi chứng kiến vụ cướp Ngân hàng Liberty, Luis Fernando Lopez (Mario D'Leon) gặp ông chủ và đối tác kinh doanh của mình, chủ hộp đêm "Gay" Tony Prince (David Kenner). Đấu tranh để điều hành các câu lạc bộ Maisonette 9 và Hercules, Tony phải vay tiền từ gia đình tội phạm Ancelotti và Mori Kibbutz (Jeff Gurner) để duy trì hoạt động của họ, cuối cùng phải gánh một khoản nợ lớn. Luis thấy mình đang làm việc với cả Mori và Rocco Pelosi (Greg Siff), một tên cướp Ancelotti, để trả nợ cho Tony. Đồng thời, anh giúp đỡ những người bạn buôn bán ma túy của mình – Armando Torres (Jaime Fernandez) và Henrique Bardas (J Salome Martinez Jr.) – thoát khỏi một số giao dịch thất bại và hỗ trợ Yusuf Amir (Omid Djalili), một nhà phát triển bất động sản ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất quan tâm đến việc mua lại mấy câu lạc bộ của Tony, với việc đánh cắp một chiếc trực thăng tấn công và giết chết nhiều tay buôn bán vũ khí, lấy cắp một xe bọc thép chở quân và một đoàn tàu điện ngầm. Luis nhanh chóng trở nên khó chịu với việc Tony không nắm quyền kiểm soát các câu lạc bộ của mình và những vấn đề liên tục mà hắn ta mang lại từ các khoản nợ của mình, nhưng cuối cùng Luis cũng giải quyết được vấn đề với Mori. Về sau, Tony lên kế hoạch mua số kim cương lậu trị giá 2 triệu USD để bán với giá cao hơn. Tuy nhiên, thương vụ này bị trận phục kích của các thành viên thuộc băng nhóm đua xe The Lost, do Johnny Klebitz (Scott Hill), cầm đầu, dẫn đến cái chết của bạn trai Tony là Evan Moss (Rob Youells) và mất đi số kim cương. Tony nhanh chóng tìm ra những viên kim cương bị đánh cắp và nhờ Luis phục kích cuộc trao đổi giữa Johnny, Niko Bellic (Michael Hollick), và đám người Do Thái để lấy lại số kim cương này. Trong suốt thời gian này, Luis còn làm việc cho trùm tội phạm người Nga Ray Bulgarin (Vitali Baganov), kẻ đề nghị giúp trang trải các khoản nợ của Tony, nhưng lại từ chối khi anh tiết lộ những viên kim cương ban đầu là tài sản của mình. Don Giovanni Ancelotti nhanh chóng ra lệnh cho Luis và Tony đưa những viên kim cương như một khoản tiền chuộc cho con gái ông ta là Gracie (Rebecca Benhayon) đang bị Niko bắt cóc. Những viên kim cương này sau cùng đã bị mất khi Bulgarin cản trở cuộc trao đổi, mặc dù Luis và Tony vẫn tìm cách giải cứu Gracie và trả về cho cha cô. Rocco sau đó đến gặp Luis và khuyên anh ta nên giết Tony để lấy lòng Bulgarin, để anh ta tha cho hắn. Dù dự định làm như vậy nhưng rốt cuộc Luis vẫn từ chối và chống trả người của Bulgarin khi họ tấn công Maisonette 9. Quyết định trả đũa, Luis bảo Tony hãy ẩn náu trong khi anh ta phá vỡ hoạt động ma túy của Bulgarin. Biết rằng Bulgarin đang chuẩn bị rời khỏi thành phố, Luis truy đuổi hắn ta với sự giúp đỡ của Yusuf và giết được hắn trên máy bay riêng của mình. Bulgarin vội thả một quả lựu đạn phá hủy cả máy bay, nhưng Luis đã nhảy dù xuống nơi an toàn. Tái hợp cùng Tony, cặp đôi quyết định mở lại câu lạc bộ, từ chối đề nghị bán lại cho Yusuf, vì họ muốn giữ nơi đây là "công việc kinh doanh gia đình" vào lúc này. Ở một nơi khác, những viên kim cương được một cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam vô gia cư tìm thấy trong thùng rác rồi đem bán lấy tiền và khởi hành đến Vice City. Lối chơi Grand Theft Auto: The Ballad of Gay Tony là game hành động phiêu lưu lấy bối cảnh thế giới mở của Liberty City. Nó có lối chơi và bối cảnh tương tự như Grand Theft Auto IV. Người chơi có thể làm lại nhiệm vụ để cải thiện điểm số của mình. Người chơi cũng có các hoạt động mới, nghề phụ, phương tiện và vũ khí. Luis có thể kêu gọi bạn bè của mình, Armando và Henrique, sử dụng khả năng đặc biệt của họ: Armando có thể bán vũ khí cho Luis trong khi Henrique có thể cung cấp cho anh ta một chiếc xe. Luis cũng có thể đưa họ đi tham gia các hoạt động kết bạn. Một bổ sung đáng chú ý, đã được giới thiệu trước đây trong Grand Theft Auto: Chinatown Wars, là hệ thống tính điểm cho các nhiệm vụ. Điểm số không có tác dụng nhưng đánh giá hiệu suất tổng thể của người chơi trong một nhiệm vụ cũng như các mục tiêu duy nhất mà họ đã hoàn thành. The Ballad of Gay Tony có "công việc phụ" để người chơi kiếm thêm tiền. Chúng bao gồm Cuộc chiến Ma túy (Drug Wars), Cuộc đua Ba môn Phối hợp (Triathlon Races), quản lý hộp đêm của Prince, tham gia Giải đấu Ngầm (Underground Fight Tournament) và nhảy BASE. Cuộc chiến ma túy diễn ra tương tự như Cuộc chiến Băng đảng (Gang Wars) trong The Lost and Damned; người chơi phải lấy được một kho ma túy và mang nó đến điểm giao hàng, với nhiều biến thể, trong khi bị các băng nhóm đối thủ truy đuổi. Cuộc đua Ba môn Phối hợp bao gồm nhảy dù đến một nhóm thuyền, chèo thuyền qua các điểm checkpoint, hạ cánh tại một nhóm ô tô và đua xe đường phố về đích. Quản lý Câu lạc bộ (Club Management) tập trung vào việc Luis làm nhân viên bảo vệ cho các câu lạc bộ của Prince, xử lý các tình huống với những người tham gia câu lạc bộ hoặc hỗ trợ/tài xế VIP. Những hoạt động mới khác bao gồm chơi gôn tại sân tập, minigame khiêu vũ tại câu lạc bộ, trò chơi uống rượu và khúc côn cầu trên không. Vũ khí, phương tiện và dù mới cũng được bổ sung trong bản mở rộng này. Những thay đổi nhỏ khác bao gồm màn hình được sửa đổi và HUD, chẳng hạn như máy đo độ cao khi người chơi ở trên không. Mục chơi nối mạng của game đã thêm vào các hoạt động mới. Đón nhận Grand Theft Auto: The Ballad of Gay Tony nhận được đánh giá "nói chung là tích cực" từ giới phê bình, theo trang tổng hợp kết quả đánh giá Metacritic. Tại Lễ trao giải Trò chơi điện tử Spike năm 2009, The Ballad of Gay Tony đã được trao giải DLC hay nhất. Complex đã xếp hạng Anthony "Gay Tony" Prince là nhân vật trò chơi điện tử LGBT thú vị nhất trong danh sách năm 2013, coi anh ta là "mớ hỗn độn nóng bỏng của dòng game GTA". Chú thích
7,196
19833035
https://vi.wikipedia.org/wiki/Grand%20Theft%20Auto%3A%20Chinatown%20Wars
Grand Theft Auto: Chinatown Wars
Grand Theft Auto: Chinatown Wars là tựa game hành động phiêu lưu do hãng Rockstar Leeds phát triển kết hợp với Rockstar North và được Rockstar Games phát hành. Trò chơi được phát hành cho Nintendo DS vào tháng 3 năm 2009, PlayStation Portable vào tháng 10 năm 2009, iOS vào tháng 1 năm 2010, và các thiết bị Android và Fire OS vào tháng 12 năm 2014. Đây là phiên bản thứ mười ba trong dòng game Grand Theft Auto và là phần tiếp theo của Grand Theft Auto IV, đồng thời là phần đầu tiên được phát hành cho hệ máy console cầm tay kể từ Vice City Stories năm 2006. Lấy bối cảnh ở thành phố Liberty City (châm biếm hư cấu về Thành phố New York), câu chuyện phần chơi đơn kể về thành viên trẻ tuổi của Hội Tam Hoàng tên là Huang Lee và những nỗ lực của anh hòng lấy lại thanh kiếm do người cha quá cố tặng sau khi nó bị mất cắp, đồng thời vô tình bị vướng vào cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các băng nhóm thuộc Hội Tam Hoàng của Liberty City. Trò chơi về cơ bản được thiết kế để người chơi có những tương tác đáng chú ý với các vật thể trên hệ thống DS và điện thoại thông minh thông qua điều khiển trên màn hình cảm ứng, đồng thời cung cấp các yếu tố lối chơi độc đáo không có trong các mục khác trong dòng game Grand Theft Auto. Yếu tố đáng chú ý nhất, khả năng mua ma túy từ nhà cung cấp và bán cho đại lý để kiếm tiền, đã gây tranh cãi sau khi trò chơi phát hành. Mặc dù vậy, trò chơi vẫn nhận được lời khen ngợi từ giới phê bình. Cốt truyện Năm 2009, thành viên Hội Tam Hoàng là Huang Lee (李皇; Lý Hoàng) đi tới Liberty City để giao thanh kiếm Yu Jian (玉劍; Ngọc Kiếm)—một vật gia truyền giành được trong một màn chơi bài của người cha vừa bị sát hại của anh ta—cho chú mình tên là Wu "Kenny" Lee (李武; Lý Vũ). Khi đến nơi, người hộ tống Huang bị những kẻ tấn công không rõ danh tính hạ sát, bọn họ đã đánh cắp thanh kiếm và bỏ mặc Huang cho đến chết. May mắn thay, anh chàng thoát chết rồi vội tìm đường đến nhà hàng của Kenny và báo cho chú mình biết về vụ trộm. Kenny tỏ ra tức giận trước tin này bèn tiết lộ rằng ông định giao thanh kiếm cho Hsin Jaoming (昭明辛; Chiêu Minh Tân), bang chủ Hội Tam Hoàng Liberty City, hòng đảm bảo vị thế kế nhiệm chức bang chủ. Cảm thấy nhục nhã vì để mất Yu Jian, Kenny hướng dẫn Huang hỗ trợ duy trì hoạt động kinh doanh của mình khi anh chàng ở trong thành phố, khiến Huang dần dần bị lôi kéo vào công việc buôn bán ma túy. Trong khi giúp đỡ chú mình, Huang biết được rằng hai kẻ khác đang cạnh tranh để trở thành người kế vị Hsin—con trai Kenny là Chan Jaoming (昭明陳; Chiêu Minh Trần), và phó bang chủ Zhou Ming (周明; Chu Minh)—và thấy mình đang làm việc cho cả hai người ngoài Kenny. Trong khi làm việc, Huang bị một thám tử LCPD tham nhũng đang được nội vụ theo dõi tên là Wade Heston ngăn cản, tay này đề nghị hỗ trợ anh tìm thanh kiếm Yu Jian, tin rằng việc bắt giữ những tên trộm sẽ làm sạch danh tiếng của anh và giải quyết vấn đề nội bộ. Huang đồng ý và giúp Heston điều tra một băng đảng gốc Hàn liên minh với Hội Tam Hoàng, nhóm mà sau này nghi ngờ đứng sau vụ trộm thanh kiếm. Sau khi nghe trộm trụ sở của băng đảng gốc Hàn, cả hai biết được rằng có một nhóm nhỏ trong băng đảng tên là Wonsu Nodong, thủ lĩnh của nhóm này đã gây ra nhiều vấn đề cho Hội Tam Hoàng với sự giúp đỡ của một kẻ báo tin. Trong lúc đó, Hsin tìm cách liên lạc với Huang để được hỗ trợ, lo ngại về tin tức về một kẻ báo tin trong tổ chức của mình, và ra lệnh cho anh ta điều tra cả băng đảng gốc Hàn và câu lạc bộ mô tô ngoài vòng pháp luật Angels of Death. Suốt thời gian này, Huang buộc phải đối phó với một tên mafia Mỹ ghét Hội Tam Hoàng, kẻ đã cố gắng lừa dối anh ta và giúp Heston thực hiện một số công việc cho người liên hệ Cục Điều tra Liên bang (FIB) của hắn, với lời đề nghị trợ giúp họ điều tra. Hsin nhanh chóng trở nên khó chịu với sự tiến bộ chậm chạp của Huang và tin rằng anh ta có thể là kẻ báo tin để rồi cố gắng giết Huang. Kenny vội ra tay can thiệp để cứu mạng cháu trai mình và thuyết phục Hsin cho Huang thêm thời gian để tìm ra kẻ báo tin thực sự, giúp anh ta cuối cùng phát hiện ra rằng cả băng đảng gốc Hàn và Angels đều vô tội. Đúng lúc đó, Heston buộc phải rút lui do áp lực từ nội bộ, để Huang đột nhập vào máy chủ FIB lấy lại một số hồ sơ có tên cả Chu và Chan là kẻ báo tin ngầm cho phía cảnh sát. Sau khi thảo luận về những phát hiện này với chú mình, Kenny thuyết phục Huang rằng chúng phải được giao cho Hsin. Vì xấu hổ trước khả năng con trai mình phản bội Hội Tam Hoàng, Hsin bèn từ chức thủ lĩnh và chỉ định Kenny là người kế vị. Trong khi đó, Huang được giao nhiệm vụ giết Chu và Chan, mặc dù cả hai đều phủ nhận cáo buộc chống lại họ trước khi chết. Heston sau đó liên lạc với Huang để báo tin rằng thông tin anh ta lấy được là giả và thủ lĩnh Wonsu đang gặp gỡ các đồng minh của hắn, bao gồm cả kẻ báo tin. Khi theo dõi cuộc họp, Huang bị sốc khi phát hiện ra Kenny mới chính là thủ lĩnh Wonsu và đã dàn dựng vụ trộm Yu Jian. Khi LCPD và FIB tổ chức trận phục kích cuộc họp này, Kenny kịp thời trốn thoát nhưng Huang và Heston vẫn truy đuổi ông ấy đến tận căn hộ áp mái của Hsin. Khi đối mặt với chú của mình, Huang biết rằng Hsin đã ra lệnh cho Kenny lấy Yu Jian để đổi lấy một chức vụ dưới quyền Chan. Kenny đã làm theo và giết cha của Huang hòng kế thừa thanh kiếm, nhưng về sau đã đánh cắp Yu Jian để giữ mình thoát khỏi tình trạng ô nhục như vậy. Ông ta cũng bí mật làm việc để làm suy yếu quyền lãnh đạo và tiếp quản của Hsin, đồng thời gài bẫy Chu và Chan hòng che đậy dấu vết của mình. Sau khi Kenny dùng thanh kiếm Yu Jian đâm trúng Hsin, ông ta lần lượt bị Huang giết chết ngay khi LCPD vừa ập đến. Trong khi tất cả mọi người tại hiện trường đều bị bắt giữ, Heston cam đoan rằng Huang được ở lại một mình hòng trả ơn cho sự giúp đỡ của anh ta. Trước khi được đưa đến bệnh viện, Hsin khen ngợi lòng trung thành của Huang và đề nghị phong anh làm bang chủ Hội Tam Hoàng tiếp theo, phản ứng của Huang không được tiết lộ trong game. Lối chơi Grand Theft Auto: Chinatown Wars thuộc thể loại hành động phiêu lưu lấy bối cảnh thế giới mở. Nó có cách trình bày khác với những phiên bản trước trong sê-ri, giống một phần với các tựa Grand Theft Auto đầu tiên. Thay vì góc nhìn từ mặt đất phía sau nhân vật chính hoặc góc nhìn từ trên xuống Chinatown Wars sử dụng góc nhìn camera có thể xoay hoàn toàn hướng xuống khi hành động. Chinatown Wars cũng sử dụng các đa giác bóng mờ với đường viền màu đen để tạo ra nét thẩm mỹ giống như truyện tranh—lần đầu tiên có trong dòng game này. Tựa game diễn ra trong một phiên bản thu nhỏ của Liberty City trong Grand Theft Auto IV, ngoại trừ Alderney. Không giống như Grand Theft Auto IV, người chơi có thể mất các ngôi sao bị truy nã bằng cách phá hủy xe cảnh sát để trốn thoát khỏi cảnh sát thay vì rời khỏi "vùng truy nã". Người chơi càng có nhiều sao thì họ càng phải hạ gục nhiều cảnh sát hơn cho mỗi cấp độ. Ví dụ, đối với cấp độ sáu sao, họ phải phá hủy sáu xe cảnh sát để hạ mức truy nã năm sao và tiếp tục như vậy. Ngoài ra còn có một cốt truyện phụ buôn bán ma túy cho phép người chơi bán heroin, acid, thuốc lắc, cần sa, cocaine và thuốc chống trầm cảm quanh thành phố. Người chơi có thể kiếm lợi nhuận bằng cách nhận biết các điều kiện và nhu cầu thị trường dựa trên vị trí địa lý và miệt mài sản xuất hàng hóa của mình cho phù hợp. Camera CCTV hoạt động như những gói hàng bí mật của trò chơi này, bị phá hủy bằng cách ném chai cocktail Molotov hoặc lựu đạn. Điều này cũng làm giảm khả năng bị bắt khi thực hiện giao dịch ma túy và cung cấp chiết khấu khi mua ma túy. Chinatown Wars áp dụng nhiều tính năng của Grand Theft Auto IV như HUD thế hệ tiếp theo. Ammu-Nation trở lại dưới dạng một trang web trong game, nơi người chơi có thể đặt mua nhiều loại vũ khí khác nhau thông qua PDA để chuyển đến nơi an toàn của họ. Người chơi cũng sẽ nhận được email mà họ có thể đọc từ PDA hoặc máy tính xách tay có trong ngôi nhà an toàn của họ. Mặc dù việc đánh cắp một phương tiện đang di chuyển rất giống với các bản Grand Theft Auto trước đây, Chinatown Wars sử dụng một hệ thống khác để đánh cắp các phương tiện đang đỗ. Tùy thuộc vào loại xe, nó có thể được khởi động theo một trong một số cách. Những chiếc xe cũ hơn cần vặn vài vòng tuốc nơ vít vào bộ phận đánh lửa, trong khi những chiếc xe khác yêu cầu khởi động xe bằng mồi lửa điện. Những chiếc xe mới hơn, đắt tiền hơn (ngoại trừ xe tải chống đạn) yêu cầu người chơi phải "hack" thiết bị cố định máy tính. Vẫn có thể lật xe hoặc đốt cháy. Người chơi không thể lái bất kỳ máy bay nào trong game dù vẫn có thể nhìn thấy những chiếc máy bay ở sân bay hoặc bay phía trên mình, còn nếu người chơi sử dụng một mã nhất định trên Nintendo DS bằng cách tận dụng "Action Replay DS" thì người chơi sẽ có thể mua một chiếc trực thăng và lái nó dạo quanh thành phố. Khác biệt hệ máy Phiên bản Nintendo DS của trò chơi tận dụng màn hình cảm ứng với các chức năng như điều khiển PDA, GPS, radio, tiếp cận những người trên bản đồ hoặc sử dụng cocktail Molotov và lựu đạn. Màn hình trên cùng hiển thị game và bảng phân cảnh. Tiếng huýt sáo của taxi được hỗ trợ bởi microphone DS hoặc bằng cách giữ nút x. Mục chơi nhiều người cạnh tranh và hợp tác chỉ khả dụng thông qua mạng không dây cục bộ DS đến DS. Phiên bản PSP có đồ họa cập nhật, không còn bóng mờ nữa, do đó có giao diện "cổ điển" hơn giống với các trò chơi trước đó trong dòng game (tuy vậy các đoạn phim cắt cảnh giống hệt nhau về mặt phong cách). Minigame (chẳng hạn như vẽ hình xăm, tháo vít ô tô và panô bom nổ) đã được điều chỉnh từ chức năng màn hình cảm ứng thành các minigame đơn giản hơn, giống QTE. Phiên bản PSP cũng có các nhiệm vụ bổ sung và các đài phát thanh độc quyền không có trong phiên bản Nintendo DS. Tuy nhiên, phần chơi mạng PSP chỉ hỗ trợ 2 người chơi. Phiên bản iOS và Android của trò chơi bao gồm điều khiển cảm ứng trên màn hình và các minigame đã được điều chỉnh để hoạt động tốt với màn hình cảm ứng điện dung. Cả phiên bản iOS và Android đều có đài phát thanh giống như phiên bản PSP, mặc dù phiên bản iOS có đài phát thanh tùy chỉnh sử dụng thư viện iTunes. Social Club Phiên bản Nintendo DS và PlayStation Portable của Grand Theft Auto: Chinatown Wars đã sử dụng Rockstar Games Social Club. Người chơi có thể sử dụng dịch vụ này để tải lên số liệu thống kê về lối chơi của mình. Nintendo Wi-Fi Connection bao gồm trò chuyện, trao đổi vật phẩm, chia sẻ các điểm đánh dấu GPS và số liệu thống kê yêu thích với những người chơi khác. Nhờ Social Club, người chơi cũng có thể mở khóa nhiệm vụ của Xin sau khi kết thúc trò chơi. Ngày 20 tháng 5 năm 2014, Nintendo đã ngừng dịch vụ Wi-Fi Connection, khiến các tính năng của Social Club không khả dụng và sau khi GameSpy đóng cửa vào ngày 10 tháng 6 năm 2014, tất cả các tính năng của Social Club cho Chinatown Wars trên PSP và DS đã bị ngừng hoạt động. Phiên bản iOS và Android không sử dụng Rockstar Social Club nên các nhiệm vụ của Xin có thể thực hiện được mà không cần kết nối với dịch vụ này. Soundtrack Nhạc cho tựa game mở đầu lối chơi là bài "Chinatown Wars" do Ghostface Killah và MF Doom trình diễn và được Oh No của hãng Stones Throw Records sản xuất. Phiên bản DS của trò chơi có phần nhạc của Deadmau5 cùng với các nhạc phẩm khác. Ngoài soundtrack có trong phiên bản DS của trò chơi, phiên bản PSP còn có nhạc phẩm của Anvil, Tortoise, DFA Records, Turntables on the Hudson và DJ Khalil. Phiên bản iOS và Android có tất cả nhạc từ phiên bản DS và PSP, đồng thời cho phép người chơi tùy chỉnh danh sách phát nhạc bằng các bài hát từ thư viện nhạc của họ. Phát hành Trong quảng cáo đặt hàng trước của GameStop dành cho Grand Theft Auto: Chinatown Wars, đoạn hội thoại đề cập đến gói cứu trợ doanh nghiệp ngoài đời thực vào năm 2008. Đoạn giới thiệu lối chơi mới được phát hành vào ngày 6 tháng 3 năm 2009, cho thấy cách chơi liên quan đến việc sử dụng súng bắn tỉa và tương tác với bàn phím bằng bút cảm ứng của Nintendo DS. GameStop có một chương trình khuyến mãi trong đó họ gửi một chiếc xe tải đi khắp nơi để mọi người dùng thử trò chơi trước khi nó được phát hành. Các cửa hàng khác tặng một "thẻ tín dụng" kích hoạt 10.000 đô la tiền trong game và quyền tiếp cận sớm hơn các loại vũ khí tốt hơn. Amazon đã cung cấp một mã để mở khóa chiếc siêu xe Infernus chống đạn độc quyền khi đặt hàng trước. Phát triển Ngày 15 tháng 7 năm 2008, tại một cuộc họp báo của Nintendo đã thông báo rằng Grand Theft Auto: Chinatown Wars sẽ được phát hành cho Nintendo DS vào mùa Đông năm sau. Theo Nintendo World Report, Chinatown Wars chứa hơn 900.000 dòng mã "được tối ưu hóa bằng tay". Đón nhận Phiên bản Nintendo DS Grand Theft Auto: Chinatown Wars đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình. Trên GameRankings, đây hiện là tựa game Nintendo DS được đánh giá cao nhất từ trước đến nay, với điểm đánh giá trung bình là 93%. Trò chơi có số điểm tổng hợp là 93/100 trên Metacritic, đây là số điểm cao nhất trên trang web đó đối với một game DS. Trò chơi cũng đạt thứ hạng cao nhất dành cho Nintendo DS tại GameSpot, với điểm đánh giá là 9,5/10. Official Nintendo Magazine xếp hạng trò chơi này số điểm 94%, ca ngợi hình ảnh và sự đa dạng trong lối chơi, kết luận trong bài đánh giá của họ rằng "Rockstar đã nắm bắt và cô đọng những điểm cao nhất của dòng Grand Theft Auto và nhồi nhét chúng thành một tựa game tuyệt vời. Bạn nghĩ rằng DS không thể xử lý được GTA? Hãy nghĩ lại". IGN UK xếp hạng trò chơi này số điểm 9,2, gọi đây là "một kiệt tác của máy chơi game cầm tay", Trong khi IGN US chấm cho game 9,5/10 điểm. Eurogamer xếp hạng 10/10, nói rằng "Nhìn chung đây vẫn là GTA như lần đầu tiên, với trí tuệ kế thừa của GTA kể từ đó, kết thúc với tất cả những thứ đáng lẽ sẽ thuộc về GTA của tương lai". 1UP.com đã cho nó điểm A−, nói rằng "ngay từ đầu, Chinatown Wars trông rất ấn tượng". Chinatown Wars tạo ra doanh thu thấp hơn dự kiến trong tuần đầu tiên tại Vương quốc Liên hiệp Anh và thậm chí còn không đạt được mức doanh thu như sự ra mắt của Vice City Stories, đúng như kỳ vọng của Rockstar. Tại Hoa Kỳ, nó chỉ bán được dưới 90.000 bản trong hai tuần đầu tiên ra mắt tại thị trường Mỹ. Điều này khiến Best Buy phải bán trò chơi với giá giảm trong một thời gian giới hạn và phản hồi về việc này rất tích cực. Phiên bản PSP Rockstar xác nhận thông qua một thông cáo báo chí rằng Grand Theft Auto: Chinatown Wars sẽ được phát hành cho PlayStation Portable vào ngày 20 tháng 10 năm 2009. Người ta suy đoán rằng phiên bản PSP sẽ chuyển sang góc nhìn thứ ba. Tuy nhiên, nó vẫn giữ nguyên góc nhìn từ trên xuống so với phiên bản DS và cũng nhận được nhiều lời khen ngợi. Trò chơi có sẵn trên đĩa UMD cũng như qua PlayStation Network. 1UP.com đã cho phiên bản PSP điểm A−, với lý do trải nghiệm này rất tốt ở lần thứ hai và nó hiệu quả đối với những người mới chơi lần đầu. IGN cho phiên bản PSP 9,3/10 điểm, so với 9,5/10 điểm trên DS. Trang web SKOAR! của Ấn Độ cho phiên bản này 9/10 điểm, nói rằng "điều phàn nàn duy nhất của tôi với tựa game này là nó có vẻ hơi quá dễ dàng". Không giống như phiên bản DS, đạt vị trí thứ 5, tựa game PSP không lọt vào top 40 của Vương quốc Liên hiệp Anh khi phát hành, cũng như không lọt vào top 20 hàng tháng của Mỹ. Phiên bản iOS và Android Chinatown Wars được phát hành trên iPhone và iPod Touch vào ngày 17 tháng 1 năm 2010. Cơ chế minigame màn hình cảm ứng ban đầu được thấy trong phiên bản Nintendo DS đã trở lại theo kiểu tương tự. Đồ họa, khi so sánh với phiên bản DS và PSP, không có bóng mờ như phiên bản DS và thiếu ánh sáng xung quanh cũng như các hiệu ứng như trong phiên bản PSP. Bản cập nhật phát hành vào ngày 28 tháng 3 năm 2010 đã bổ sung thêm các đài phát thanh trước đây chỉ dành riêng cho phiên bản PSP. Phiên bản iPad được phát hành vào ngày 9 tháng 9 năm 2010, với đồ họa độ phân giải cao 1024x768. Nó nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình, Levi Buchanan của IGN cho 9,0/10 điểm, gọi tựa game này là "một vở kịch phi thường". Ngày 13 tháng 10 năm 2013, Chinatown Wars đã bị xóa khỏi App Store mà không có tuyên bố nào từ Rockstar. Người ta tin rằng đó là do vấn đề tương thích với iOS 7. Ngày 21 tháng 12 năm 2013, trò chơi đã quay trở lại App Store với các vấn đề tương thích được khắc phục. Một bản cập nhật bổ sung được phát hành vào ngày 18 tháng 12 năm 2014 cung cấp hỗ trợ cho độ phân giải Màn hình Retina và hỗ trợ bộ điều khiển không dây. Chinatown Wars ra mắt lần đầu trên thiết bị Android vào ngày 18 tháng 12 năm 2014, có các tính năng và cải tiến về đồ họa tương tự như bản cập nhật iOS mới nhất. Phiên bản Android do War Drum Studios phát triển. Hiện tại, cả phiên bản iOS và Android đều không có khả năng tương thích với phần chơi mạng hoặc Social Club. Giải thưởng Tại Giải thưởng Trò chơi điện tử Spike năm 2009, Grand Theft Auto: Chinatown Wars đã đoạt Giải Game Cầm tay Hay nhất. Tuy nhiên, phiên bản không được chỉ định. Nó cũng giành được Giải Game Nintendo DS Hay nhất năm 2009 từ GameSpot. Trò chơi đã được đề cử cho ba giải thưởng của GameSpot: Game của Năm, Game DS của Năm và Game Hành động của Năm, giành giải Game DS của Năm. Chinatown Wars được Nintendo Power đề cử cho Game của Năm, cũng như Game Nintendo DS của Năm, Đồ họa Nintendo DS Xuất sắc nhất và Game Phiêu lưu Hay nhất. Pocket Gamer đã trao giải Game Hành động/Game Arcade Hay nhất dành cho thiết bị cầm tay, Game của Năm dành cho thiết bị cầm tay và Game Tổng thể của Năm vào năm 2010. Tranh cãi Chinatown Wars tiếp tục truyền thống gây tranh cãi của dòng game này vì một minigame buôn bán ma túy bao gồm heroin và thuốc lắc. Những người phản đối game bao gồm Darren Gold thuộc tổ chức từ thiện chống lạm dụng ma túy Drugsline đã tuyên bố: "Bất cứ điều gì sử dụng việc buôn bán ma túy làm trò giải trí đều đang gửi đi một thông điệp sai lầm. Sự tán dương không giúp ích gì cho công việc của chúng tôi khi cố gắng giáo dục trẻ em về hiểm họa của việc lạm dụng chất gây nghiện." Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Edge, Dan Houser cho biết "chúng tôi muốn có một minigame buôn bán ma túy trong nhiều game GTA. [...] Chúng tôi từng chơi thử một chút trong Vice City Stories, vì minigame này vẫn chạy suôn sẻ khi kết hợp với câu chuyện chính. Nó hoạt động tốt với GTA, với việc lái xe vòng quanh bản đồ và nó mang đến cho bạn một điều khác để suy nghĩ – một lớp hoặc một mảnh ghép khác giúp bạn có động lực... Nó giao thoa với câu chuyện chính và những điều bạn học được từ đó chạy theo câu chuyện, nhưng hầu như nó hoạt động độc lập". Chú thích
18,298
19833036
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kem%20th%E1%BB%8Bt%20l%E1%BB%A3n%20mu%E1%BB%91i%20x%C3%B4ng%20kh%C3%B3i
Kem thịt lợn muối xông khói
Kem thịt lợn muối xông khói (hoặc kem thịt lợn muối xông khói và trứng) là một loại kem thường được tạo ra bằng cách thêm thịt lợn muối xông khói vào sữa trứng và làm đông lạnh hỗn hợp. Khái niệm kem thịt lợn muối xông khói bắt nguồn từ một bản phác thảo năm 1973 trên loạt phim hài The Two Ronnies của Anh dưới dạng trò đùa cợt; sau cùng món này được một tiệm kem ở New York tạo ra dành cho ngày Cá tháng Tư năm 1982. Vào thập niên 2000, đầu bếp người Anh Heston Blumenthal đã thử nghiệm kem, làm một loại sữa trứng tương tự như trứng bác và thêm thịt lợn muối xông khói để tạo ra một trong những món ăn đặc trưng của ông. Bây giờ nó xuất hiện trên thực đơn tráng miệng ở các nhà hàng khác. Nguồn gốc Kem thường được coi là một loại thực phẩm ngọt và dùng làm món tráng miệng, mặc dù có bằng chứng về việc ăn kem mặn vào thời Victoria. Kem thịt lợn muối xông khói có nguồn gốc là trò đùa cợt, một hương vị mà không ai muốn ăn, trong "Ice Cream Parlour Sketch" của The Two Ronnies năm 1973, khách hàng đòi món kem có hương vị phô mai và hành tây, sau đó là thịt ba rọi xông khói. Năm 1992, kem thịt lợn muối xông khói và trứng được tạo ra như một thử nghiệm cho Ngày Cá tháng Tư tại Aldrich's Beef and Ice Cream Parlor ở Fredonia, New York. Mười năm trước, người đồng sở hữu Scott Aldrich đã bị một nhân viên bán nước thịt thách thức làm kem nước sốt thịt bò, mà anh ta đã làm ra vào Ngày Cá tháng Tư năm 1982. Mặc dù đây được cho là sáng tạo "kinh tởm nhất" của họ, nhưng Aldrich's vẫn tiếp tục cho ra mắt những hương vị kem dị thường khác vào Ngày Cá tháng Tư, chẳng hạn như "kem spaghetti sô-cô-la" (đóng góp đầu tiên của Julia Aldrich), "xốt cà chua và mù tạt", "thịt lợn và đậu" hay "dưa cải bắp và vani" vào năm 1991. Năm 1992, họ đã làm ra 15 kem thịt lợn muối xông khói và trứng mà ông tặng miễn phí cho bất kỳ ai dùng thử. Nhìn chung các loại kem đều nhận được đánh giá tích cực. Năm 1992, tờ The Victoria Advocate đưa tin,Ông nói, bất chấp những cái tên kinh tởm, hầu hết các hương vị chơi khăm của [Aldrich] đều ngon. Thịt lợn muối xông khói và trứng có vị hơi giống mùi vani hạt dẻ, mặc dù đôi khi vẫn có vị thoang thoảng của lòng đỏ trứng bong tróc. Năm 2003, một tiệm kem mang tên "Udder Delight", mở ở Bãi biển Rehoboth, Delaware, chuyên về những hương vị kem "kỳ lạ". Trong số các hương vị khác, chẳng hạn như kem bơ đậu phộng và thạch từng đoạt giải thưởng, họ đã tạo ra một loại kem thịt lợn muối xông khói có vị giống như bơ hồ đào. Người chủ tiệm là Chip Hearn, đã đưa hương vị này cùng với 17 loại khác vào một nhóm tập trung chỉ dành cho những ai được mời đến, cho phép họ nếm thử rồi đề xuất những thay đổi và nêu lên ý kiến về hương vị này.
2,665
19833068
https://vi.wikipedia.org/wiki/Atalanta
Atalanta
Atalanta (tiếng Hy Lạp: Ἀταλάντη, Atalántē) là một nữ anh hùng trong thần thoại Hy Lạp. Có hai cốt truyện về nữ thợ săn Atalanta, đó là cốt truyện thứ nhất có nguồn gốc từ Arcadia, theo đó, cô có cha mẹ là Iasus và Clymene và người nữ anh hùng này nổi danh từ những câu chuyện về cuộc săn lợn rừng Calydonian và với các anh hùng Argonaut và một cốt truyện khác đến từ Boeotia, theo dó, cô là con gái của Vua Schoeneus và chủ yếu được chú ý nhờ kỹ năng chạy bộ điêu luyện. Trong cả hai phiên bản, nữ anh hùng Atalanta là một cư dân địa phương đã liên minh với nữ thần Artemis trong những câu chuyện truyền miệng như vậy, các nhân vật phụ thường được đặt những cái tên khác nhau, dẫn đến những khác biệt nhỏ trong cách gọi tên từng khu vực. Câu chuyện Khi sinh ra, Atalanta được đưa đến Núi Parthenion để làm phép tiếp xúc vì cha cô mong muốn có một đứa con trai.. Một con gấu cái vốn một trong những biểu tượng của Artemis khi những đàn con của cô gần đây đã bị thợ săn giết chết đã đến đưa Atalanta đi và chăm sóc cô cho đến khi chính những người thợ săn đó phát hiện ra cô và tự mình nuôi cô trên núi. Nàng Atalanta sau đó lớn lên trở thành một trinh nữ nhanh nhẹn, tránh xa đàn ông và cống hiến hết mình cho nữ thợ săn Artemis. Cô nàng Atalanta tự bắt chước theo Artemis, cô thường mặc một chiếc áo dài cộc tay dài đến đầu gối và sống ở vùng hoang dã. Khi sống ở nơi hoang dã, nàng Atalanta đã từng giết chết hai nhân mã, Rhoecus và Hylaios, bằng cây cung của mình sau khi vẻ đẹp của cô thu hút sự chú ý của chúng và chúng định cưỡng hiếp cô. Nữ anh hùng Atalanta thỉnh thoảng chỉ được nhắc đến trong truyền thuyết về các anh hùng Argonaut, tuy nhiên, sự tham gia của cô được ghi nhận trong lời kể của Pseudo-Apollodorus, kể rằng trong quá trình tìm kiếm Bộ lông cừu vàng thì nàng Atalanta người đã được mời và kêu gọi sự bảo vệ của Artemis cũng đi thuyền cùng nhóm Argonaut với tư cách là nữ nhân duy nhất trong số họ. Theo lời kể của Diodorus Siculus thì Atalanta không chỉ được ghi nhận là đã đi thuyền cùng những người Argonaut mà còn chiến đấu bên cạnh họ trong trận chiến ở Colchis, nơi cô cùng với Jason, Laertes và các con trai của Thesipae bị thương và sau đó được Medea chữa lành. Theo lời kể của Apollonius của Rhodes, thì Jason đã ngăn cản Atalanta tham gia không phải vì cô thiếu kỹ năng mà vì là phụ nữ, cô có khả năng gây ra hiềm tỵ giữa những người đàn ông trên tàu. Sau cái chết của Vua Pelias ở Iolcus thì Atalanta đã đánh bại Peleus trong một trận đấu vật. Trận đấu này đã trở thành một chủ đề phổ biến trong nghệ thuật Hy Lạp. Chú thích
2,559
19833073
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20%C4%91i%E1%BB%83m%20t%C6%B0%E1%BB%9Fng%20ni%E1%BB%87m%20v%C3%A0%20ch%C3%B4n%20c%E1%BA%A5t%20c%E1%BB%A7a%20Th%E1%BA%BF%20chi%E1%BA%BFn%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t%20%28M%E1%BA%B7t%20tr%E1%BA%ADn%20ph%C3%ADa%20T%C3%A2y%29
Các địa điểm tưởng niệm và chôn cất của Thế chiến thứ nhất (Mặt trận phía Tây)
Các địa điểm tưởng niệm và chôn cất của Thế chiến thứ nhất (Mặt trận phía Tây) là Di sản thế giới được UNESCO công nhận vào năm 2023 bao gồm 139 nghĩa trang và đài tưởng niệm dọc theo Mặt trận phía Tây, nơi diễn ra cuộc chiến giữa quân Đức và lực lượng Đồng minh từ năm 1914 đến năm 1918 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nằm giữa phía bắc Bỉ và phía đông nước Pháp, các phần của di sản khác nhau về quy mô từ những nghĩa địa lớn, nơi lưu giữ hài cốt của hàng chục nghìn binh sĩ mang nhiều quốc tịch khác nhau, đến những nghĩa trang nhỏ và đơn giản hơn cũng như những đài tưởng niệm. Các địa điểm này bao gồm các nghĩa trang quân sự, bãi chôn lấp tại chiến trường và nghĩa trang bệnh viện, thường được kết hợp với đài tưởng niệm. Địa điểm Bỉ -Nghĩa trang quân đội Bỉ: Houthulst -Nghĩa trang quân đội Bỉ: Oeren -Tượng đài quốc gia Canada: Đài tưởng niệm Saint Julien -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang DCLI đầu tiên, The Bluff -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Bedford House -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Buffs Road -CNghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Buttes New British -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Essex Farm -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Hedge Row Trench -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Hyde Park Corner (Royal Berks) -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Larch Wood (Giao cắt đường sắt) -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Lijssenthoek -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Lone Tree -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Mud Corner -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang No Man's Cot -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Ploegsteert Wood -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Polygon Wood -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Prowse Point -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Rifle House -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Anh Spanbroekmolen -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Strand -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Toronto Avenue -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Track "X" -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Tyne Cot -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Welsh Caesar's Nose -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Woods -Nghĩa trang quân sự Khối thịnh vượng chung và đài tưởng niệm những người mất tích: Phần mở rộng nghĩa trang Berks và Đài tưởng niệm những người mất tích Ploegsteert -Tượng đài Khối thịnh vượng chung cho người mất tích: Cổng Menin -Tượng đài Khối thịnh vượng chung cho người mất tích: Đài tưởng niệm Nieuport -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung - Đức: Nghĩa trang quân đội St Symphorien -Hầm mộ của Tháp Yser -Pháo đài Loncin -Nghĩa trang quân đội Pháp: l'Orée de la Forêt -Nghĩa trang quân đội Pháp: la Belle Motte -Nghĩa trang quân đội Pháp: le Plateau -Nghĩa trang quân đội Pháp: Saint-Charles de Potyze -Địa điểm quy tụ hài cốt Pháp: Dãy núi Kemmel -Nghĩa trang quân đội Pháp - Đức: le Radan -Nghĩa trang quân đội Đức: Nghĩa trang chiến tranh Đức Langemark -Nghĩa trang quân đội Đức: Nghĩa trang chiến tranh Đức Vladslo -Tượng đài Ireland: Công viên Hòa bình Đảo Ireland -Khu đất quân sự: Robermont -Khu đất hành hình: Tamines Pháp -Tượng đài và nghĩa trang quân đội Mỹ: Nghĩa trang và Đài tưởng niệm Mỹ St. Mihiel -Tượng đài và nghĩa trang quân đội Mỹ: Nghĩa trang và Đài tưởng niệm Mỹ Aisne-Marne -Tượng đài và nghĩa trang quân đội Mỹ: Nghĩa trang Mỹ Meuse-Argonne -Nghĩa trang quốc gia Úc: Đài tưởng niệm quốc gia Úc Villers-Bretonneux và Nghĩa trang quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Villers-Bretonneux -Tượng đài quốc gia Canada: Đài tưởng niệm Vimy Quốc gia Canada -Tượng đài Khối thịnh vượng chung: Đài tưởng niệm Newfoundland Beaumont-Hamel, Công viên tưởng niệm Khối thịnh vượng chung: Công viên tưởng niệm Beaumont Hamel (Newfoundland) và Nghĩa trang quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang Hunter -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Canada số 2 -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Étaples -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Fromelles (Pheasant Wood) -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Canada Givenchy Road -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Phần mở rộng của Nghĩa trang xã Le Quesnoy -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Lichfield Crater -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân sự Louvencourt -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Mill Road -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Trung Quốc Noyelles-sur-mer và đài tưởng niệm Trung Quốc Noyelles-sur-mer -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Rancourt -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang xã Wimereux -Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung và tượng đài Úc: Đài tưởng niệm và Nghĩa trang Úc V.C. Corner -Tượng đài và nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Đài tưởng niệm Loos và Nghĩa trang Dud Corner -Tượng đài và nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Louverval và Đài tưởng niệm Cambrai -Tượng đài và nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Đài tưởng niệm và Nghĩa trang Pozières -Nghĩa trang và đài tưởng niệm quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang Faubourg của amiens, Đài tưởng niệm Arras và Đài tưởng niệm Công cộng Arras Flying -Tượng đài Khối thịnh vượng chung cho người mất tích: Đài tưởng niệm Thiepval và Nghĩa trang quân đội Pháp - Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang Anglo-Pháp Thiepval -Nghĩa trang quân đội Tiệp Khắc: Neuville-Saint-Vaast -Nghĩa trang quân đội Đan Mạch: Braine -Pháo đài Douaumont -Bia mộ Pháp của cuộc hành hình Fleury-devant-Douaumont -Tượng đài Pháp: Les fantômes -Tượng đài Pháp của trận chiến Marne -Nghĩa trang quân đội Pháp: Germania -Khu đất quân sự Pháp sự hy sinh ngày 11 tháng 11 năm 1918 của Vrigne-Meuse -Tượng đài - quy tụ hài cốt Pháp: Haute-Chevauchée -Nhà nguyện và Nghĩa trang thành phố Pháp: Mondement-Montgivroux -Nghĩa trang quốc gia Pháp: Tù nhân chiến tranh: Sarrebourg -Nhà nguyện và hầm mộ quốc gia Pháp: Lưu niệm tiếng Pháp của Rancourt -Hầm mộ quốc gia Pháp và Nghĩa trang quân đội Đức: Crouée -Hầm mộ quốc gia Pháp: Hầm mộ Lớn Villeroy -Hầm mộ quốc gia Pháp: Assevent & và Nghĩa trang quân đội Đức Assevent -Hầm mộ quốc gia Pháp: Cerny-en-Laonnois, Nghĩa trang quân đội Đức: Cerny-en-Laonnois và Nhà nguyện tưởng niệm của le Chemin des Dames -Hầm mộ quốc gia Pháp: Chambière -Hầm mộ quốc gia Pháp: Compiègne (Royallieu) -Hầm mộ quốc gia Pháp: Craonnelle -Hầm mộ quốc gia Pháp: Cuts -Hầm mộ quốc gia Pháp: Duchesne -Hầm mộ quốc gia Pháp: Espérance -Hầm mộ quốc gia Pháp: Opéra -Hầm mộ quốc gia Pháp: Chipotte -Hầm mộ quốc gia Pháp: Fontenelle -Hầm mộ quốc gia Pháp: Forestière -Hầm mộ quốc gia Pháp: Harazée -Hầm mộ quốc gia Pháp: Maize -Hầm mộ quốc gia Pháp: Targette & Nghĩa trang quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang Anh Targette -Hầm mộ quốc gia Pháp: Lagarde -Hầm mộ quốc gia Pháp: Faubourg Pavé -Hầm mộ quốc gia Pháp: le Silberloch, đài kỷ niệm quốc gia Pháp và hầm mộ của Hartmannswillerkopf -Hầm mộ quốc gia Pháp: Le Sourd & Nghĩa trang quân đội Đức: Le Sourd -Hầm mộ quốc gia Pháp: Trottoir -Hầm mộ quốc gia Pháp: Wettstein -Hầm mộ quốc gia Pháp: les Tiges -Hầm mộ quốc gia Pháp: Moosch -Hầm mộ quốc gia Pháp: Navarin: Đài kỷ niệm sự hy sinh của những người lính của Champagne -Hầm mộ quốc gia Pháp: Nhà thờ Đức Bà Lorette -Hầm mộ quốc gia Pháp: Pierrepont -Hầm mộ quốc gia Pháp: Riche -Hầm mộ quốc gia Pháp: Saint-Thomas en Argonne & Hầm mộ quốc gia Pháp: Tượng đài Gruerie -Hầm mộ quốc gia Pháp: the 28th brigade La ferme des Wacques -Hầm mộ quốc gia Pháp: Tượng đài - Nơi quy tụ hài cốt Binh đoàn Lê dương Pháp (Henri Fansworth) -Hầm mộ quốc gia Pháp: Tù nhân của Effry -Hầm mộ quốc gia Pháp: Thiescourt & Nghĩa trang quân đội Đức: Thiescourt -Hầm mộ quốc gia Pháp, Nghĩa trang quân đội Đức và Nghĩa trang quân đội Ba Lan: Bois du Puits -Địa điểm quy tụ hài cốt Pháp, Hầm mộ quốc gia Pháp, đài kỷ niệm Israel và đài kỷ niệm Hồi giáo: Hầm chứa hài cốt Douaumont -Khu đất Pháp: Sự mất mát người dân vô tội của Gerbeviller -Bia và lăng mộ Đức và Pháp: Petit Donon -Nghĩa trang quân đội Đức: Apremont -Nghĩa trang quân đội Đức: Chestres & Hầm mộ quốc gia Pháp: Chestres -Nghĩa trang quân đội Đức: Consenvoye -Nghĩa trang quân đội Đức: Gobessart -Nghĩa trang quân đội Đức: Hohrod-Bärenstall -Nghĩa trang quân đội Đức: Kahm -Nghĩa trang quân đội Đức: Hellenwald -Nghĩa trang quân đội Đức: Maison Blanche -Nghĩa trang quân đội Đức: Nghĩa trang Route de Solesmes và Nghĩa trang quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Cambrai East -Nghĩa trang quân đội Đức: Lagarde -Nghĩa trang quân đội Đức: Pierrepont -Nghĩa trang quân đội Đức: Rancourt -Nghĩa trang quân đội Đức: Saint-Quentin & Đài kỷ niệm Đức - Pháp: Saint-Quentin -Nghĩa trang quân đội Đức: the Uhlans -Nghĩa trang quân đội Đức: Veslud -Đài kỷ niệm Đức: Nghĩa trang Saint-Charles -Đài tưởng niệm Ấn Độ: Đài tưởng niệm Khối thịnh vượng chung Neuve Chapelle -Nghĩa trang quân đội Ý: Bligny -Nghĩa trang quân đội Bồ Đào Nha: Richebourg-l'Avoué -Nghĩa trang quân đội Rumani: Nghĩa trang Soultzmatt -Nghĩa trang quân đội Nga và nhà nguyện: Nghĩa trang Saint-Hilaire-le-Grand -Đài tưởng niệm quốc gia Nam Phi: Đài tưởng niệm quốc gia Nam Phi Delville Wood và Nghĩa trang quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang Delville Wood -Hào Lưỡi lê
9,808
19833075
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20C%C3%A1nh%20di%E1%BB%81u%202015
Giải Cánh diều 2015
Giải Cánh Diều 2015' là lần thứ 14 giải Cánh Diều được tổ chức; lễ trao giải diễn ra tối 20 tháng 4 năm 2016 tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội, được đạo diễn bởi Trịnh Lê Văn. Đây là lần đầu tiên Giải Cánh diều có 3 bộ phim nhận giải Bạc hạng mục phim truyện điện ảnh. Giải thưởng năm này có thêm đề cử cho Nam diễn viên phụ và nữ diễn viên phụ xuất sắc. Tiêu chí của Giải lần này là "Đề cao các tác phẩm điện ảnh, truyền hình có dấu ấn sáng tạo trong thể hiện, mang đậm bản sắc dân tộc, giàu giá trị nhân văn và đạt hiệu quả xã hội tích cực". -Tổ chức -Ban giám khảo Trưởng ban giám khảo các hạng mục gồm Phim truyện điện ảnh đạo diễn NSND Đặng Nhật Minh cùng các thành viên như Phạm Nhuệ Giang, đạo diễn Lê Lâm, diễn viên Mai Thu Huyền... Các trưởng ban giám khảo hạng mục phim truyền là hình đạo diễn Vũ Xuân Hưng, phim tài liệu - khoa học là đạo diễn Lê Hồng Chương, công trình nghiên cứu, lý luận phê bình là PGS-TS Trần Thanh Hiệp và hạnh mục phim ngắn NSƯT Phan Thị Bích Hà. Hãng phim truyện Đài Truyền hình Việt Nam chiến thắng nhiều giải thưởng của hạng mục phim truyền hình, nên để tránh các tranh cãi về sau, ban tổ chức Giải Cánh diều đã loại bỏ giám đốc của Hãng là đạo diễn Đỗ Thanh Hải khỏi ban giám khảo. -Sự kiện liên quan 18 bộ phim truyện điện ảnh tham gia tranh giải Cánh diều 2015 được trình chiếu miễn phí tại 4 địa điểm ở Hà Nội bắt đầu từ ngày 13 đến 17 tháng 4 năm 2006. Có khoảng 100 - 200 vé mời miễn phí được phát trong mỗi suất chiếu. -Đề cử Buổi lễ trao giải thay vì tổ chức vào ngày 15 tháng 3 như hằng năm thì lần này được lui về ngày 20 tháng 4, thời hạn đăng ký đề cử cũng được kéo dài hơn, từ đầu tháng 1 đến 20 tháng 2 năm 2016. Công việc chấm điểm diễn ra trong tháng 3 năm 2016. Trong 143 phim và 6 công trình nghiên cứu của hơn 50 hãng sản xuất tranh giải tại Cánh diều 2015, hạng mục phim truyền hình có 16 phim dài tập, 8 phim ngắn tập; phim hoạt hình có 14 phim; 37 phim tài liệu, 12 phim khoa học và hạng mục phim ngắn có 33 phim. Phim truyện điện ảnh có 18 phim trong tổng số 37 phim được sản xuất trong năm 2015. Với mục đích bảo vệ phim Việt, Ban tổ chức của Cánh diều không cấp nhận những bộ phim được làm lại của nước ngoài. Vì thế, ngay từ cuối tháng 1 năm 2006, một cái tên khá nổi bật đã không có tên trong danh sách đề cử là Em là bà nội của anh. -Hạng mục Phim truyện điện ảnh -Giải thưởng -Tri ân / tôn vinh Giải Cánh diều 2015 có phần tôn vinh cống hiến của nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ và Nhà giáo Nhân dân Lê Đăng Thực với nền điện ảnh Việt Nam. -Phim điện ảnh -Phim truyền hình -Phim tài liệu -Phim ngắn -Phim khoa học -Hoạt hình -Công trình nghiên cứu, lý luận, phê bình Công bố kết quả: Tiến sĩ Trần Thanh Hiệp và nghệ sĩ Chiều Xuân Có hai giải Cánh diều Vàng: -Công trình nghiên cứu- lý luận: Nghệ thuật tạo hình trong sáng tác điện ảnh – Đỗ Lệnh Hồng Tú -Tập tiểu luận: Đời sống nghệ thuật – PGS.TS Trần Luân Kim Hai bằng khen: -Chuyên luận “Người diễn không chuyên trong phim truyện”; Tác giả: NGND. Lê Đăng Thực, Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành. -Sách chuyên khảo “Những cống hiến làm nên lịch sử nghệ thuật điện ảnh thế giới thời phim câm''”; Tác giả: PGS.TS.NSƯT Trần Duy Hinh, Nxb Hội nhà văn ấn hành.
3,183
19833079
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20m%C3%A1y%20bay%20tu%E1%BA%A7n%20tra%20h%C3%A0ng%20h%E1%BA%A3i
Danh sách máy bay tuần tra hàng hải
Đây là danh sách máy bay tuần tra hàng hải, đôi khi còn gọi là máy bay trinh sát hàng hải, máy bay trinh sát ven biển hoặc máy bay ném bom tuần tra, là máy bay được thiết kế để hoạt động trên mặt nước trong thời gian dài với vai trò tuần tra hàng hải, kiểm soát các tuyến đường biển - đặc biệt là thực hiện tác chiến chống tàu ngầm (ASW), tác chiến chống tàu mặt nước (AShW) và tìm kiếm cứu nạn (SAR).
401
19833096
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wednesday%20Club
Wednesday Club
Wednesday Club (; ) là một bộ phim truyền hình Thái Lan sắp phát sóng năm 2023 với sự tham gia của Pawat Chittsawangdee (Ohm), Hirunkit Changkham (Nani), Phuwin Tangsakyuen, Kay Lertsittichai, Kittiphop Sereevichayasawat (Satang), Rachanun Mahawan (Film) và Kanyarat Ruangrung (Piploy). Bộ phim được sản xuất dựa trên bộ tiểu thuyết "ตุ๊กตาแต้มสี" (tạm dịch: Thú bông đầy màu sắc) của สุนันทา. Bộ phim được đạo diễn bởi Chainarong Tampong và sản xuất bởi GMMTV cùng với Keng Kwang Kang Waisai. Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình cho năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours," vào ngày 22 tháng 11 năm 2022. Bộ phim sẽ được phát sóng vào lúc 20:30 (ICT), thứ Hai và thứ Ba trên GMM 25, bắt đầu từ ngày 6 tháng 11 năm 2023. Diễn viên Diễn viên chính -Pawat Chittsawangdee (Ohm) vai Kong -Hirunkit Changkham (Nani) vai Pali -Phuwin Tangsakyuen vai Kun -Kay Lertsittichai vai Mac -Kittiphop Sereevichayasawat (Satang) vai Peem -Rachanun Mahawan (Film) vai Tam -Kanyarat Ruangrung (Piploy) vai May Diễn viên phụ -Sakonrut Woraurai (Four) vai Mink -Kejmanee Wattanasin (Pin) vai Venus -Weerayut Chansook (Arm) vai Kan -Praekwan Phongskul (Bimbeam) vai Kanya -Chayapol Jutamas (AJ) vai Wang Chao -Chayakorn Jutamas (JJ) vai Ma Han -Phromphiriya Thongputtaruk (Papang) vai Karn -Thinnaphan Tantui (Thor) vai Top -Puttipong Jitbut (Chokun) vai Kat -Chinnarat Siriphongchawalit (Mike) -Theepakon Kwanboon (Prom) -Sawanee Utoomma (Iang) Sản xuất Ban đầu, vai diễn Peem sẽ do diễn viên Archen Aydin (Joong) thủ vai theo thông báo tại buổi họp báo GMMTV 2023 Diversely Yours,. Tuy nhiên, vào ngày 14 tháng 6 năm 2023, GMMTV đưa ra thông báo thay đổi diễn viên thành Kittiphop Sereevichayasawat (Satang) do lịch trình bận rộn của các diễn viên. Tiếp đó, vào ngày 19 tháng 7 năm 2023, GMMTV tiếp tục thông báo thay đổi diễn viên thủ vai Tam từ Ramida Jiranorraphat (Jane) thành Rachanun Mahawan (Film) do các lý do cá nhân của diễn viên.
1,965
19833114
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kibich%C5%AB%C5%8D%2C%20Okayama
Kibichūō, Okayama
là thị trấn thuộc huyện Kaga, tỉnh Okayama. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 10.886 người và mật độ dân số là 41 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 268,73 km².
192
19833126
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Chatino%20cao%20nguy%C3%AAn
Tiếng Chatino cao nguyên
Tiếng Chatino cao nguyên là một ngôn ngữ Trung bộ châu Mỹ bản địa, một trong những ngôn ngữ nằm trong nhóm Chatino của ngữ hệ Oto-Mangue. Phương ngữ khá đa dạng; Ethnologue 16 đếm các phương ngữ là ba ngôn ngữ như sau: Chatino cao nguyên Đông (phương ngữ Lachao-Yolotepec) Chatino Tây (phương ngữ Yaitepec, Panixtlahuaca, và Quiahije) Chatino Nopala Các phương ngữ lân cận giữa ba nhóm có hiểu biết lẫn nhau khoảng 80%; sự đa dạng giữa ba phương ngữ phương Tây gần như lớn như nhau. Ngữ âm Tiếng Chatino Yaitepec Tiếng Chatino Yaitepec có các phụ âm âm vị như sau (Rasch 2002): -Các âm /d͡z, ʒ/ chỉ hiếm khi phát âm. -Các âm xát khác /ð, ɣ/ cũng có thể xuất hiện do các từ mượn tiếng Tây Ban Nha. -/hʷ/ phát âm là một âm môi-răng [f] khi đứng trước phụ âm. -Các âm mũi khi đứng trước phụ âm, phát âm là âm tiết [n̩, m̩]. -Âm mũi môi-môi /m/ cũng có thể được viết là nw về mặt chính tả. Khi nw đứng trước /k/, chữ cái này phát âm là [ŋʷ], ở nơi khác; chữ cái này phát âm là [m]. -/w/ có thể được phát âm là một âm xát môi-môi [β], khi đứng trước âm /j, i, e/ tại vị trí đầu từ. -/n/ đồng hóa thành [ŋ] khi đứng trước phụ âm vòm mềm /k, ɡ/. -/k/ phát âm là [kʲ] khi đứng trước /e/. -/j/ phát âm là [j̊] vô thanh khi đứng trước một phụ âm vô thanh. -Một âm schwa bổ sung được phát âm giữa phụ âm. Rasch (2002) báo cáo mười thanh điệu riêng biệt cho tiếng Chatino Yaitepec: bốn thanh điệu cấp cao , giữa , thấp-giữa , và thấp ; hai thanh điệu cao dần /˦˥/ và /˨˦/; và ba thanh điệu thấp dần , , , cũng như một thanh điệu thấp dần sử dụng hạn chế hơn, tìm thấy trong một số từ vựng và trong một số dạng động từ hoàn chỉnh. Chữ cái Có nhiều bảng chữ cái thực tế cho tiếng Chatino, hầu như dựa trên bảng chữ cái tiếng Tây Ban Nha. Tiêu biểu là = , = , và được phát âm là trước nguyên âm sau và trước nguyên âm trước. Trong tiếng Chatino Quiahije, và có lẽ rộng hơn trên khắp tiếng Chatino cao nguyên, các chữ hoa hướng lên trên A–L dùng làm chữ cái thanh điệu trong từ vựng: , với các chữ cái bổ sung (M và S hướng lên trên) cho biến điệu.
2,039
19833144
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%BF%20b%C3%A0o%20d%E1%BA%ABn%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20%28hydroid%29
Tế bào dẫn nước (hydroid)
Tế bào dẫn nước (hydroid) là một loại tế bào dẫn có ở một số loại rêu, tế bào này có thể coi là tiền thân của quản bào (tracheid) ở thực vật có mạch. Trong một số loại rêu thực như thành viên của họ Polytrichaceae, các tế bào này hình thành nên lớp tế bào trong cùng của thân. Khi trưởng thành chúng là các tế bào dài, không màu, có thành mỏng với đường kính nhỏ, chứa nước nhưng không chứa chất nguyên sinh (tế bào chất). Các tế bào dẫn nước này tập hợp cùng hoạt động như một mô dẫn gọi là hydrome, có chức năng vận chuyển nước và chất khoáng từ đất. Chúng được bao quanh bởi các bó tế bào sống gọi là leptoid có chức năng vận chuyển đường và các chất tan, leptoid là tiền thân của mạch rây - ploem. Các tế bào dẫn nước tương tự như quản bào (tracheid) của thực vật có mạch, nhưng không có lignin trong thành tế bào để cung cấp sự chống đỡ cho cấu trúc. Các tế bào dẫn nước đã được tìm thấy ở một vài loại thực vật hoá thạch ở phiến đá Rhynie như là Aglaophyton. Lúc đầu người ta nhầm các tế bào này với các quản bào của mạch gỗ, sau đó chúng được xác định lại và do vậy Aglaophyton được phân loại lại từ thực vật có quản bào sang thực vật có tế bào dẫn nước. Chú thích
1,171
19833161
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u%20Do%C3%A3n%20B%C3%A2n
Lưu Doãn Bân
Lưu Doãn Bân (; 1925 – 21 tháng 11 năm 1967) là một nhà hóa học hạt nhân người Trung Quốc và là con trai của Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ. Đầu đời Lưu Doãn Bân sinh năm 1925 tại quận An Nguyên, thành phố Bình Hương. Cha mẹ là Lưu Thiếu Kỳ và Hà Bảo Trân. Khi Doãn Bân được hai tuổi, ông được đưa về quê nội ở Ninh Hương, Hồ Nam để chăm sóc. Năm 1934, mẹ ông bị Quốc dân Đảng xử tử trong khi bị giam cầm. Tháng 7 năm 1938, Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa Doãn Bân đến Diên An để đoàn tụ với cha. Mùa thu năm này, Doãn Bân bắt đầu theo học tại Trường Tiểu học Sư phạm Diên An ở tuổi 13. Sự nghiệp giáo dục và khoa học Năm 1939, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định cử một số người con của các nhà cách mạng trong đảng đi du học ở Liên Xô. Vào tháng 11 năm 1939, Doãn Bân và em gái Lưu Ái Cầm đến nhà trẻ ở Monino, nơi các con của Mao Trạch Đông là Mao Ngạn Anh và Mao Ngạn Thanh sinh sống. Lúc ở Liên Xô, Doãn Bân được biết với tên tiếng Nga 'Klim' (Клим). Sau một học kỳ, Lưu Doãn Bân chuyển đến Trường nội trú Ivanovo, cách Moskva 300 km, tại thành phố Ivanovo và được Tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế của Liên Xô bảo trợ. Trong thời gian ở trường, ông học rất siêng năng và vào tháng 6 năm 1941, sau khi Đức xâm lược Liên Xô, Doãn Bân đã tích cực tham gia các tổ chức lao động do Viện Nhi đồng Quốc tế tổ chức như khai hoang, khai thác gỗ và vận chuyển củi. Ông còn tình nguyện hiến máu cho các binh sĩ Hồng quân đang chiến đấu ở tiền tuyến. Ông được bầu chọn là một trong những nhà lãnh đạo hội sinh viên Học viện Trẻ em Quốc tế, và gia nhập Komsomol và đứng đầu tổ chức Học viện Trẻ em Quốc tế. Sau khi tốt nghiệp trung học năm 1945, Doãn Bân được nhận vào Học viện Sắt và Thép Moskva, ông theo học chuyên ngành luyện kim. Trong thời gian ở học viện, ông gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô và sau khi tốt nghiệp, ông được nhận vào Khoa Hóa học của Đại học Quốc gia Moskva với bằng danh dự và là nghiên cứu sinh chuyên ngành hóa học phóng xạ. Ông tốt nghiệp năm 1955 với bằng phó tiến sĩ và vào Học viện Hóa học của Đại học Moskva với tư cách là nhà nghiên cứu. Trong một bức thư gửi đến Lưu Doãn Bân vào năm 1955, Lưu Thiếu Kỳ viết: Khi lợi ích cá nhân của con đối lập với lợi ích của Đảng, cha tin tưởng con có thể hy sinh vì lợi ích của mình đối với Đảng và nhân dân." Năm 1957, ông trở về Trung Quốc, ông ở tại nơi cha mình cư trú tại Trung Nam Hải trong vài ngày, trước khi chuyển đến Phương Sơn, Sơn Tây, cách thủ đô Bắc Kinh 50 km, để làm việc tại Viện Năng lượng Nguyên tử Trung Quốc (Viện 401), đây là một trong những viện nghiên cứu vũ khí hạt nhân sớm nhất ở Trung Quốc. Ông có những đóng góp xuất sắc về nghiên cứu năng lượng hạt nhân và được trao chứng chỉ nghiên cứu. Năm 1959, khi quan hệ Trung–Xô chia rẽ, Liên Xô từ chối cung cấp cho Trung Quốc những vật liệu kỹ thuật quan trọng để phát triển vũ khí hạt nhân. Năm 1961, các nhà nghiên cứu từ Viện 1 thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Trung Quốc được chuyển đến Nhà máy Linh kiện Nhiên liệu Hạt nhân Trung Quốc (Nhà máy 202) tại Bao Đầu, Khu tự trị Nội Mông, nơi họ thành lập phòng thí nghiệm thứ hai, chịu trách nhiệm nghiên cứu vật liệu nhiệt hạch. Mùa đông năm 1962, Lưu Doãn Bân đến Nhà máy 202, ông được cấp trên bổ nhiệm trở thành giám đốc Văn phòng Nghiên cứu Số 2. Văn phòng dưới sự lãnh đạo của ông bắt đầu nghiên cứu và tổ chức hoạt động đối với đề án bom nguyên tử và vào ngày 16 tháng 10 năm 1964, quả bom nguyên tử đầu tiên của Trung Quốc được kích nổ thành công tại địa điểm thử nghiệm Lop Nur, khiến Trung Quốc trở thành cường quốc hạt nhân thứ năm trên thế giới và là quốc gia châu Á đầu tiên sở hữu năng lực hạt nhân. Cái chết Năm 1966, Đại Cách mạng Văn hóa diễn ra và Lưu Doãn Bân được sai đi làm việc, ông được giao công việc dọn dẹp và đào mương chất thải và các công việc không chuyên khác. Tháng 7 năm 1966, Lưu Thiếu Kỳ bị tố cáo là "tẩu tư phái" và "kẻ phản quốc", đồng thời bị Lâm Bưu cách chức Phó Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hậu quả từ sự sụp đổ của cha mình, Lưu Doãn Bân còn bị lên án là "gián điệp" và "tẩu tư phái". Doãn Bân bị Hồng vệ binh tra tấn và ngược đãi, họ đưa ông đến một vùng đô thị ở Bao Đầu, tại đây ông bị làm nhục công khai tại một đại hội phê đấu. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1967, Doãn Bân tự sát bằng cách nằm trên đường ray tàu hỏa phía bắc khu dân cư nơi gia đình ông sinh sống. Lưu Thiếu Kỳ qua đời vào ngày 12 tháng 11 năm 1969 tại Khai Phong, Hà Nam, do bị ngược đãi và tra tấn trong lúc giam giữ. Sau khi Đại Cách mạng Văn hóa kết thúc năm 1976 với việc Mao Trạch Đông qua đời, Lưu Doãn Bân được phục hồi danh tiếng sau khi qua đời vào năm 1978. Cùng năm, một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội Nhà máy 202. Lưu Thiếu Kỳ được phục hồi danh dự sau khi qua đời vào năm 1980. Vào ngày 16 tháng 4 năm 2015, Đại sứ Nga tại Trung Quốc Andrey Ivanovich Denisov đã trao Huân chương Kỷ niệm "70 năm chiến thắng trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại 1941–1945" cho 32 công dân Trung Quốc, trong đó truy tặng huân chương cho Lưu Doãn Bân. Gia đình Lúc ở Liên Xô, Lưu Doãn Bân kết hôn với một phụ nữ Nga tên là Mara Fedotova. Cả hai có hai người con; con trai tên Lưu Duy Ninh (tiếng Nga: Алексей Климович Федото, Alexei Klimovich Fedotov) và con gái tên Sonya. Sau khi Doãn Bân quay về Trung Quốc vào năm 1957, Mara chuyển đến Trung Quốc cùng các con vào năm 1959, đây là lần cuối hai vợ chồng gặp nhau. Vì căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô, Mara ly hôn với Doãn Bân và quay về Moskva cùng hai con. Doãn Bân sau đó tái hôn với Lý Diệu Tú, họ có hai con trai, Lưu Vệ Đông và Lưu Vĩ Trạch. Lưu Duy Ninh còn được biết với biệt danh Alyosha, đã không công khai tiết lộ thân phận mình là cháu nội của Lưu Thiếu Kỳ do lo sợ bị KGB do thám khi quan hệ Trung–Xô dần xấu đi. Sau khi tốt nghiệp Đại học Hàng không Moskva, ông làm việc tại trung tâm hàng không vũ trụ quốc gia Liên Xô và Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga trong vài năm nhưng không tiết lộ lai lịch cho đến khi được Chính phủ Trung Quốc mời tham dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Lưu Thiếu Kỳ vào năm 1998. Yêu cầu đến Trung Quốc của ông bị bác bỏ vì công việc liên quan đến bí mật quân sự. Việc từ chối yêu cầu khiến ông càng nôn nóng muốn đến Trung Quốc và vì vậy sớm rút khỏi quân đội Nga. Khi yêu cầu đi đến Trung Quốc của ông tiếp tục bị từ chối, ông đã đệ đơn kiện và năm 2003, ông đến thăm Trung Quốc lần đầu tiên, tại đây ông gặp các thành viên trong gia đình của Lưu Thiếu Kỳ, bao gồm vợ ông là Vương Quang Mỹ. Duy Ninh muốn định cư ở Trung Quốc, ông điều hành một tổ chức mang tên "Hiệp hội các nhà công nghiệp và doanh nhân Nga–Châu Á" nhằm tạo điều kiện thuận lợi thương mại giữa Trung Quốc và Nga tại Quảng Châu. Vợ chồng Lưu Duy Ninh có hai người con, người con gái tên Margarita giữ chức phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Công nghiệp Nga-Châu Á và Hội đồng Doanh nghiệp Nga-Philippines. Con gái của Lưu Doãn Bân là Sonya kết hôn với một người Mỹ gốc Nga và định cư ở Hoa Kỳ.
6,906
19833186
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A7n%20El
Thần El
Thần El (ʼĒl hay còn gọi là Il, tiếng Ugarit: 𐎛𐎍 ʾīlu; tiếng Phoenicia: 𐤀𐤋 ʾīl tiếng Do Thái: אֵל ʾēl; tiếng Syria: ܐܺܝܠ ʾīyl; tiếng Ả rập: إل ʾīl hay إله ʾilāh; tiếng Akkadia: 𒀭, ilu) là một từ Semitic Tây Bắc có nghĩa là "thần" hoặc "vị thần" hoặc đề cập đến (như một tên riêng) cho bất kỳ một trong nhiều vị thần Cận Đông thời cổ đại. Một dạng hiếm hơn là ila đại diện cho dạng vị ngữ trong tiếng Akkad cổ và trong Amorite. Từ này có nguồn gốc từ Proto-Semitic ʾil hay *ʔil, có nghĩa là "thần". Các vị thần cụ thể được gọi là El, Al hoặc Il bao gồm vị thần tối cao của tôn giáo Canaan cổ đại và vị thần tối cao của người nói tiếng Semit Đông trong Tiền triều đại Lưỡng Hà. Trong số ngôn ngữ Hitti thì El được biết đến với cái tên Elkunirsa (𒂖𒆪𒉌𒅕𒊭/ Elkunīrša). Tổng quan Chúa cha Jehovah hay Yahweh, thánh Allah của Hồi giáo đều có cùng một nguồn gốc từ Thần Bò IL của dân Babylon và du nhập vào dân tộc Do Thái khoảng năm 2000 TCN và đổi tên thành thần bò EL. Thần EL thường hiện hình thành một con bò mộng (The Bull EL hoặc EL the Bull). Trong tài liệu cổ sử Ai cập, được viết dưới triều đại Pharaoh Merneptah có nói đến nước Do Thái dưới quốc hiệu ISRAEL, theo đó ISRA là cai trị, EL là thần bò EL. Do đó, ISRAEL có nghĩa là một quốc gia được cai trị bởi thần bò EL. Người Do Thái có tục thờ thần bò EL từ lâu đời, cho nên EL có nghĩa là "Thiên Chúa của Do Thái" (EL is God of IsraEL). Ngôn ngữ Do Thái (Hebrew) gọi Thiên Chúa EL bằng nhiều danh từ: EL, ELoah, ELim, ELohim, họ tin Thiên Chúa EL thường hay xuất hiện ở các núi đá tiếng Do Thái là Shaddai, nên họ cũng gọi Thiên Chúa EL là El Shaddai. Các danh từ để gọi Thiên Chúa EL nói trên đã được nhắc lại trong các bộ sách Kinh Thánh của đạo Do Thái. Trước khi đặt tên nước là Do Thái là IsraEL thì Jacob đã đến thị trấn Luz của xứ Canaan, Jacob nằm mơ được thiên thần cho một cái thang. Jacob đã leo thang lên tới thiên đàng và được gặp Thiên Chúa EL mặt đối mặt. Khi tỉnh dậy, Jacob đã đổi tên thị trấn Luz thành Beth-EL, có nghĩa là "Nhà của Chúa" (House of EL), vâu chuyện về giấc mơ của Jacob được kể lại trong Cựu ước (Genesis 28:12). Do Thái không phải là nước duy nhất thờ thần EL. Hầu hết các dân tộc quanh vùng Canaan đều thờ thần EL và rất nhiều thần khác, họ quan niệm đồng nhất tất cả đều coi thần EL là vị thần cao nhất. Mặc dầu tục thờ bò El đã phát sinh ở Babylon từ rất lâu đời, nhưng nó được chính thức du nhập vào dân tộc Do Thái từ thời Abraham khoảng năm 2000 TCN. Abraham và dân tộc Do Thái coi El là vị thần duy nhất để tôn thờ, trong khi các dân tộc chung quanh tôn thờ thần El cùng với các vị thần khác như Baal, Anath, Ashtaroh, Ashera. Dân Do Thái được coi là dân tộc được Chúa chọn vì nước này là quốc gia đầu tiên mang tên thần bò El (Isra-El). Người Canaanites và Semites thờ thần El dưới tượng của một con bò đực. Đối với họ, con bò đực là biểu tượng của sức mạnh. Cũng vì vậy, mỗi khi nói đến thần El họ thường gọi Ngài là Bò Thần El (Bull-El). Tại các thành phố thuộc xứ Babylon người ta thường làm lễ tế thần El với những lời ca tụng là "Thiên Chúa hiện thân thành Con Bò". Theo niềm tin của người Babylon, thần El là vị chủ tọa các hội đồng thần thánh (Divine Council) ở trên trời, là đấng tạo hóa đã sinh ra vũ trụ vạn vật và là đấng đã tạo dựng nên con người. El là danh hiệu lâu đời nhất để gọi Thiên Chúa. Sách Sáng Thế ký (sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh Cựu ước) 28:10-22, 33:20, 49:25 đã đồng nhất hóa El với Elohim và Yaweh (Jehovah). Ý nghĩa chữ El (theo tiếng Hebrew) cũng đồng nghĩa với chữ Ilu theo ngôn ngữ cổ ở Babylon là Akkadian. Tất cả đều do ngôn ngữ Semistic "Yl", có nghĩa là "hùng mạnh". Trong các đền thờ của người Phoenicians, thần El được tôn thờ như Thiên Chúa Tối cao, Đấng sinh ra các vị thần và là Chúa của thiên đàng. Trong ngôn ngữ Ả rập, người ta không gọi Thiên Chúa IL (tức El) một cách trống không mà thường thêm mạo tự ah ở sau danh từ Il. Do đó, tên của Thiên Chúa Il trở thành Illah (Il + mạo từ 'ah').
3,936
19833236
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tadai%20Mahiro
Tadai Mahiro
là một người mẫu khỏa thân, nữ diễn viên khiêu dâm và YouTuber người Nhật Bản. Tên cũ của cô là Mahiro (まひろ). Cô sinh ra tại Tokyo. Cô thuộc về công ti Mine's.
159
19833237
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kumenan%2C%20Okayama
Kumenan, Okayama
là thị trấn thuộc huyện Kume, tỉnh Okayama. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.530 người và mật độ dân số là 58 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 78,65 km². Địa lý Nhân khẩu Dân số Theo dữ liệu điều tra dân số của Nhật Bản, dân số thị trấn Kumenan đạt đỉnh vào năm 1950. Từ năm 1960 đến nay, dân số có xu hướng giảm dần.
355
19833240
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91ua%20%C3%B4%20t%C3%B4%20C%C3%B4ng%20th%E1%BB%A9c%201%20Th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20Mexico%202023
Giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố Mexico 2023
Giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố Mexico 2023 (tên chính thức là Formula 1 Gran Premio de la Ciudad de México 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 29 tháng 10 năm 2023 tại trường đua Anh em Rodríguez, Thành phố México, México và là chặng đua thứ 19 của giải đua xe Công thức 1 2023. Bối cảnh Tại chặng đua này, Nico Hülkenberg sẽ tham gia chặng đua Công thức 1 thứ 200 của anh. Bảng xếp hạng trước cuộc đua Sau giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trước Sergio Pérez (240 điểm) và Lewis Hamilton (201 điểm) với 466 điểm. Tại bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu Mercedes (344 điểm) và Ferrari (322 điểm) với 706 điểm. Lựa chọn bộ lốp Nhà cung cấp lốp xe Pirelli sẽ cung cấp các bộ lốp hạng C3, C4 và C5 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này. Tường thuật Buổi tập Trong buổi tập đầu tiên, năm đội sẽ thay thế một trong những tay đua chính của họ với một tay đua dự bị của họ: Théo Pourchaire thay cho Valtteri Bottas tại Alfa Romeo, Frederik Vesti thay cho George Russell tại Mercedes, Jack Doohan thay cho Pierre Gasly tại Alpine, Oliver Bearman thay cho Kevin Magnussen tại Haas và Isack Hadjar thay cho Yuki Tsunoda tại AlphaTauri. Ngoài ra, đây sẽ là lần đầu tiên Bearman, Vesti và Hadjar tham gia một buổi tập Công thức 1. Sau khi buổi tập đầu tiên kết thúc, Max Verstappen đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:19,718 phút trước Alexander Albon và Sergio Pérez. Trong buổi tập thứ hai, Verstappen đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:18,686 phút trước Lando Norris và Charles Leclerc. Trong buổi tập thứ ba, Verstappen đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:17,887 phút trước Albon và Pérez. Vòng phân hạng Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Verstappen là tay đua nhanh nhất Q1 và sau khi Q1 kết thúc, Esteban Ocon, Magnussen, Lance Stroll, Norris và Logan Sargeant đều bị loại. Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba và cuối cùng của vòng phân hạng (Q3). Verstappen là tay đua nhanh nhất Q2 và sau khi Q2 kết thúc, Gasly, Nico Hülkenberg, Fernando Alonso, Albon và Tsunoda bị loại. Phần thứ ba (Q3) kéo dài 12 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên cho cuộc đua chính được xác định sẵn. Leclerc giành vị trí pole với thời gian nhanh nhất là 1:17,723 phút trước Carlos Sainz Jr. và Verstappen. Đó là vị trí pole thứ 22 trong sự nghiệp của Leclerc. Cuộc đua Ngay sau khi cuộc đua bắt đầu, Pérez va chạm với Leclerc khiến Pérez phải bỏ cuộc và tấm cuối của mũi xe của Leclerc bị hư hại. Tại vòng đua thứ 31, Kevin Magnussen tông mạnh vào rào chắn đường đua khiến hệ thống lốp treo sau bên trái bị hỏng và cũng khiến chiếc xe của anh cháy âm ỉ. Vụ tai nạn này khiến cuộc đua bị gián đoạn. Tại vòng đua thứ 47, Alonso bỏ cuộc do chiếc xe của anh bị hỏng. Đồng đội Lance Stroll của anh tại Aston Martin sau đó cũng buộc phải bỏ cuộc sau một pha va chạm với Bottas. Sargeant gặp vấn đề với máy bơm nhiên liệu và anh buộc phải bỏ cuộc tại vòng đua cuối cùng. Verstappen giành chiến thắng trước Hamilton và Leclerc sau khi cuộc đua kết thúc. Đây là chiến thắng thứ 16 trong mùa giải của anh và cũng là chiến thắng thứ 51 trong sự nghiệp của anh. Hơn nữa, anh đã chính thức phá kỷ lục số lần chiến thắng nhiều nhất của anh vào mùa giải 2022. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Sainz Jr., Norris, Russell, Daniel Ricciardo, Oscar Piastri, Albon và Ocon. Kết quả Vòng phân hạng Chú thích - – Yuki Tsunoda được yêu cầu bắt đầu cuộc đua từ vị trí cuối cùng vì đã vượt quá số lượng bộ nguồn và hộp số cho phép. - – Lance Stroll vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 18 nhưng anh phải xuất phát từ làn pit vì các yếu tố có thông số kỹ thuật khác với những thông số kỹ thuật được sử dụng ban đầu đã được lắp trên xe của anh trong điều kiện parc fermé. - – Logan Sargeant không lập được thời gian trong vòng phân hạng. Anh được phép tham gia đua sau khi ban quản lý cho phép. Thêm vào đó, anh bị tụt mười vị trí vì vượt trong điều kiện cờ vàng tại Q2. Án phạt này không gây ảnh hưởng đến vị trí xuất phát của anh vì anh phải xuất phát ở vị trí cuối cùng. Cuộc đua Chú thích - – Bao gồm một điểm cho vòng đua nhanh nhất. - – Valtteri Bottas về đích ở vị trí thứ 14 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 15 sau khi nhận một án phạt 5 giây vì gây ra vụ va chạm với Lance Stroll. - – Logan Sargeant và Lance Stroll được xếp hạng vì đã hoàn thành hơn 90% của chiều dài tổng cộng của chặng đua. Bảng xếp hạng sau cuộc đua Bảng xếp hạng các tay đua -Lưu ý: Chỉ có mười vị trí đứng đầu được liệt kê trong bảng xếp hạng này. -Các tay đua/đội đua được in đậm và đánh dấu hoa thị là nhà vô địch Giải đua xe Công thức 1 2023. Bảng xếp hạng các đội đua
5,056
19833259
https://vi.wikipedia.org/wiki/Spy%20%C3%97%20Family%20%28m%C3%B9a%201%29
Spy × Family (mùa 1)
Mùa đầu tiên của loạt phim anime truyền hình Spy × Family được sản xuất bởi Wit Studio và CloverWorks, do Kazuhiro Furuhashi đạo diễn, với thiết kế nhân vật của Kazuaki Shimada trong khi Kazuaki Shimada và Kyoji Asano là giám đốc hoạt hình. Âm nhạc được sáng tác và sản xuất bởi (K)now Name. Bộ anime này được công bố lần đầu tiên vào tháng 10 năm 2021. Bộ phim kể về điệp viên bậc thầy Twilight, dưới bí danh của bác sĩ tâm thần Loid Forger, và xây dựng một gia đình giả nhằm điều tra nhà lãnh đạo chính trị Donovan Desmond, gia đình của anh bao gồm cô con gái Anya, một nhà ngoại cảm, vợ anh ta là Yor, một sát thủ có biệt danh là Công chúa Gai. Các tập Băng đĩa Bản tiếng Nhật Bản tiếng Anh Ghi chú
702
19833267
https://vi.wikipedia.org/wiki/Billie%20Holiday
Billie Holiday
Billie Holiday (tên khai sinh Eleanora Fagan; 7 tháng 4 năm 1915 – 17 tháng 7 năm 1959) là ca sĩ nhạc jazz và swing người Mỹ. Được đồng nghiệp và nhạc sĩ nổi tiếng Lester Young đặt biệt danh là "Lady Day", Holiday đã tạo nên nhiều cải tiến trong lối hát nhạc jazz và pop. Cách hát của cô được lấy cảm hứng từ nhạc jazz, tạo nên nhiều cách trình bày mới trong việc nhả chữ và nhịp. Cô nổi tiếng với cách thay đổi tông giọng và kỹ năng ứng tác của mình. Holiday lớn lên với một tuổi thơ cơ cực và khởi nghiệp với việc đi hát tại các hộp đêm quanh khu Harlem rồi được nhà sản xuất John Hammond phát hiện. Cô ký hợp đồng thu âm với hãng đĩa Brunswick Records vào năm 1935, sau đó hợp tác với Teddy Wilson sản xuất giai điệu "What a Little Moonlight Can Do", một trong những bản nhạc jazz kinh điển nhất mọi thời đại. Trong suốt các thập niên 1930 và 1940, Holiday có nhiều thành công với các hãng đĩa Columbia và Decca. Cuối những năm 1940, cô bắt đầu gặp nhiều rắc rối liên quan tới luật pháp và sử dụng ma túy. Cô trở lại sau án tù với buổi diễn tại Carnegie Hall. Danh tiếng cô khôi phục với nhiều buổi diễn thành công trong thập niên 1950, đặc biệt là 2 buổi diễn cháy vé tại Carnegie Hall. Tuy nhiên, những sản phẩm thu âm cuối cùng của cô không được đánh giá cao do chất giọng bị hủy hoại cùng những rắc rối cá nhân bên lề. Album phòng thu cuối cùng của Holiday, Lady in Satin, được phát hành vào năm 1958. Cô qua đời vì xơ gan vào năm 1959 ở tuổi 44. Holiday giành được 4 giải Grammy, tất cả đều được trao sau khi cô qua đời, trong đó có giải "Album có tính lịch sử nhất". Cô được xứng danh tại Đại sảnh Danh vọng Grammy và Đại sảnh Danh vọng R&B. Năm 2000, Holiday có tên trong Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll với dòng ghi chú "Billie Holiday thay đổi nhạc jazz mãi mãi". Cô được vinh danh trong "50 giọng ca vĩ đại nhất" của đài phát thanh NPR và đứng thứ 4 trong danh sách "500 ca sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại" (2003) của tạp chí Rolling Stone. Holiday cũng là chủ đề của nhiều bộ phim điện ảnh và tài liệu, gần đây nhất có thể kể tới The United States vs. Billie Holiday (2021). Danh sách đĩa nhạc -Billie Holiday Sings (1952) -An Evening with Billie Holiday (1953) -Billie Holiday (1954) -Music for Torching (1955) -Velvet Mood (1956) -Lady Sings the Blues (1956) -Body and Soul (1957) -Songs for Distingué Lovers (1957) -Stay with Me (1958) -All or Nothing at All (1958) -Lady in Satin (1958) -Last Recording (1959)
2,425
19833281
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4%20Vi%20Li%E1%BB%85n
Ngô Vi Liễn
Ngô Vi Liễn (1894-1945) là quan lại cuối thời Nguyễn và là tác giả nhiều bộ sách quý về địa chí, tiêu biểu là cuốn Tên làng xã và Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ chi tiết về các làng xã miền Bắc Việt Nam. Tiểu sử Ngô Vi Liễn sinh ngày 05 tháng 11 năm 1894 trong một gia đình Nho học tại xã Tả Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ông tốt nghiệp trung học trường Bưởi, trường Thông ngôn rồi thi vào trường Cao đẳng, ban Luật học. Ra trường ông làm Tham tá ở Sở Thư viện và Lưu trữ Trung ương Hà Nội từ năm 1923 tới 1929. Thời kỳ này, ông hoạt động trong hội Trí Tri, tham gia dạy các lớp trung học buổi tối và ngày chủ nhật, cũng như viết một số sách. Từ năm 1928 đến năm 1939, ông làm Tri huyện ở các huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), Quỳnh Côi (Thái Bình), Bình Lục (Hà Nam) và Võ Giàng (Bắc Ninh). Năm 1939, trong một cuộc tranh luận với viên công sứ Bắc Ninh, ông xin từ chức Tri huyện (có người nói là bị cách chức) và chuyển về làm việc ở Cục Lưu trữ Phủ Thống sứ Bắc Kỳ. Ông bị xuất huyết não năm 1941, liệt nửa người nhưng vẫn cố gắng biên soạn sách bằng tay trái. Ông mất ngày 14 tháng 5 năm 1945. Sách đã viết -Viết chữ Quốc ngữ cho đúng (được hội đồng duyệt sách giáo khoa cho sử dụng ở các trường học) -La société d'enseignement mutuel du Tonkin (Hội Trí Tri Bắc Kỳ) -Dịch cuốn "Lettres de guerre d'un Annamite" (Thư chiến tranh của một người Việt Nam) của Jean Marquet - 1924 -Biên tập cuốn "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu, cùng Đỗ Đình Nghiêm -Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ - cùng Đỗ Đình Nghiêm, Phạm Văn Thư, 1926 -Nomenclature des communes du Tonkin (Danh mục các làng xã Bắc Kỳ) - 1928 -Địa dư huyện Cẩm Giàng - 1931 -Địa dư huyện Quỳnh Côi -1933 -Địa dư huyện Bình Lục - 1935 Tưởng nhớ Tên ông được đặt cho một con phố tại phường Lam Hạ, Thành phố Phủ Lý, Hà Nam, chạy song song với phố Ngô Thì Nhậm.
1,842
19833283
https://vi.wikipedia.org/wiki/St%C3%A9phanie%20Frappart
Stéphanie Frappart
Stéphanie Frappart (; sinh ngày 14 tháng 12 năm 1983 tại Le Plessis-Bouchard, Pháp) là một nữ trọng tài bóng đá người Pháp. Bà trở thành trọng tài cấp FIFA kể từ năm 2009 và đã từng điều hành một số trận đấu đỉnh cao. Bà cũng trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều khiển các trận đấu của các câu lạc bộ nam hàng đầu châu Âu và các trận đấu tại Ligue 1, và cũng trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại UEFA Champions League kể từ năm 2020. Vào năm 2021, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại vòng loại của một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam. Năm 2022, bà cùng với Yamashita Yoshimi của Nhật Bản và Salima Mugansanka của Rwanda trở thành một trong ba trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử làm nhiệm vụ tại một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam, đồng thời cũng trở thành trọng tài nữ đầu tiên làm trọng tài chính điều hành một trận đấu tại World Cup dành cho nam. Tiểu sử và sự nghiệp Stéphanie Frappart sinh ngày 14 tháng 12 năm 1983 tại Le Plessis-Bouchard, Pháp. Bà lớn lên ở Herblay và bắt đầu sự nghiệp cầm còi từ năm 13 tuổi. Năm 18 tuổi, bà trở thành trọng tài và điều hành các trận đấu ở cấp độ U-19 của Pháp. Năm 2011, bà bắt đầu sự nghiệp cầm còi của mình tại Championnat National, giải đấu hạng ba của Pháp. Năm 2014, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại Ligue 2, giải đấu hạng hai của bóng đá chuyên nghiệp Pháp. Bà cũng được lựa chọn để làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2015 được tổ chức tại Canada. Vào ngày 3 tháng 8 năm 2018, bà tiếp tục được lựa chọn để làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019 được tổ chức ngay tại quê nhà. Bà cũng được lựa chọn để trở thành trọng tài chính điều hành trận chung kết của giải đấu giữa Hoa Kỳ và Hà Lan. Năm 2019, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại Ligue 1, với trận đấu đầu tiên bà cầm còi vào ngày 29 tháng 4 năm 2019, giữa Amiens và Strasbourg. Vào ngày 2 tháng 8 năm 2019, bà được lựa chọn để điều hành trận Siêu cúp châu Âu 2019 giữa Liverpool và Chelsea, đồng thời cũng đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử một nữ trọng tài cầm còi trong một chung kết của một giải đấu dành cho nam do UEFA tổ chức. Vào ngày 11 tháng 11 năm 2019, bà được chọn làm trọng tài chính điều khiển trận chung kết lượt về tại giải Champions Cup, giữa nhà vô địch của Giải bóng đá Ngoại hạng Cộng hòa Ireland và NIFL Premiership. Bà trở thành trọng tài chính điều khiển trận đấu mà nhà vô địch Cộng hòa Ireland Dundalk hủy diệt nhà vô địch Bắc Ireland Linfield với tỷ số 6–0, trong trận đấu mà bà đã rút ra 2 thẻ vàng. Vào ngày 2 tháng 12 năm 2020, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành một trận đấu tại UEFA Champions League, đó là trận đấu Juventus (Ý) và Dynamo Kyiv (Ukraina). Tháng 3 năm 2021, bà điều khiển trận lượt về thuộc vòng 16 đội tại UEFA Women's Champions League giữa nữ Atlético Madrid và nữ Chelsea. Vài tháng sau, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại vòng loại của một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam, giữa Hà Lan và Latvia. Vào ngày 7 tháng 5 năm 2022, bà điều hành trận chung kết Cúp quốc gia Pháp 2022 giữa Nice và Nantes. Vào ngày 19 tháng 5 năm 2022, bà được FIFA lựa chọn là một trong 36 trọng tài làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 được tổ chức tại Qatar, và cũng trở thành một trong ba trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử làm nhiệm vụ tại giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam cùng với Yoshimi Yamashita của Nhật Bản và Salima Mukansanga của Rwanda. Vào ngày 1 tháng 12 năm 2022, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử khi điều hành một trận đấu thuộc một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam, khi bà trở thành trọng tài chính điều hành trận đấu giữa Costa Rica và Đức thuộc lượt trận cuối bảng E của giải đấu. Vào ngày 9 tháng 1 năm 2023, bà tiếp tục được FIFA lựa chọn để làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 được tổ chức tại Úc và New Zealand. Giải thưởng Giải thưởng Trọng tài nữ xuất sắc nhất thế giới của Liên đoàn Lịch sử và Thống kê Bóng đá quốc tế: 2019, 2020, 2021 Ghi chú
4,079
19833284
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BB%B1%20%C3%A1n%20596
Dự án 596
Dự án 596 () là tín hiệu, Chic-1 của cơ quan tình báo Hoa Kỳ) là vụ thử vũ khí hạt nhân đầu tiên do Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiến hành, phát nổ vào ngày 16 tháng 10 năm 1964, tại địa điểm thử nghiệm Lop Nur. Đó là một thiết bị phân hạch nổ urani-235 được chế tạo từ urani cấp độ vũ khí (U-235) trong một nhà máy khuếch tán khí ở Lan Châu. Bom nguyên tử là một phần của chương trình "Hai quả bom, một vệ tinh" của Trung Quốc. Với sức công phá 22 kiloton, tương đương với quả bom hạt nhân đầu tiên RDS-1 của Liên Xô năm 1949 và quả bom Fat Man của Mỹ thả xuống Nagasaki, Nhật Bản năm 1945. Với cuộc thử nghiệm, Trung Quốc trở thành cường quốc hạt nhân thứ năm trên thế giới và là quốc gia châu Á đầu tiên sở hữu năng lực hạt nhân. Đây là vụ thử hạt nhân đầu tiên trong số 45 vụ thử hạt nhân thành công mà Trung Quốc tiến hành từ năm 1964 đến năm 1996, tất cả đều diễn ra tại bãi thử Lop Nur. Chú thích
903
19833296
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leimen%20%28Baden%29
Leimen (Baden)
Leimen (Nam Franconia: Lååme) là thị trấn lớn thứ ba của huyện Rhein-Neckar, tây bắc bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Heidelberg về phía nam.
155
19833318
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aero%20Vodochody
Aero Vodochody
Aero Vodochody (thường được gọi tắt là Aero) là một công ty chuyên về hàng không của Cộng hòa Séc. Công ty có cơ sở chính đặt tại sân bay Vodochody, Praha Đông (huyện), thuộc Vodochody và Odolena Voda. Trong thời kỳ diễn ra Chiến tranh Lạnh, Aeoro Vodochody nổi tiếng với các dòng máy bay phản lực huấn luyện, như L-29 Delfin và L-39 Albatros. Công ty cũng phát triển nhiều biến thể của L-39, như máy bay chiến đấu hạng nhẹ L-59 Super Albatros và L-159 Alca. Aero Vodochody được coi là doanh nghiệp sản xuất máy bay lớn nhất nằm bên ngoài khối các nước Council for Mutual Economic Assistance (COMECON) trừ Liên Xô. Sau khi chính quyền Xô Viết sụp đổ ở Tiệp Khắc vào năm 1989, Aero Vodochody đánh mất vị trí nhà cung cấp máy bay huấn luyện cho khối các nước xã hội chủ nghĩa. Doanh thu của công ty qua đó bị tụt giảm trong những năm 1990s tương tự như tại các nước NATO do chiến tranh Lạnh kết thúc. Từ năm 1998 đến 2004, Aero Vodochody được vận hành bởi công ty hàng không Boeing. Tháng Mười năm 2006, công ty được tư nhân hóa, mua lại bởi quỹ đầu tư Czech-Slovak Penta Investments với giá trị khoảng 3 tỉ Koruna Séc. Aero Vodochody tiếp tục tiến hành sản xuất máy bay và các bộ phận công nghiệp hàng không. Trong sự kiện Farnborough Airshow 2014, công ty đã đưa ra phiên bản Aero L-39NG, bản hiện đại hóa của L-39. Lịch sử nhỏ|The factory at Vodochody Airport Aero Vodochody có lịch sử bắt đầu từ năm 1919. Từ năm 1929 đến 1951, công ty con của nó là Aero, đã sản xuất các xe ô tô động cơ hai thì cỡ nhỏ và cỡ trung, và còn sản xuất xe tải Škoda 150 từ năm 1946 đến năm 1947 theo li xăng. Những năm 1950s, Aero Vodochody phá triển dòng máy bay huấn luyện L-29 Delfin trainer aircraft; đây là công ty đầu tiên của Tiệp Khắc có khả năng thiết kế máy bay phản lực. L-29 là chương trình phát triển máy bay công nghiệp lớn nhất từng được thực hiện trong các nước Council for Mutual Economic Assistance (COMECON) ngoại trừ Liên Xô. Đã có 3.000 chiếc L-29 được sản xuất trong đó khoảng 2.000 chiếc được cung cấp làm máy bay huấn luyện cơ bản cho Không quân Liên Xô. Còn lại, cả ở phiên bản có và không có vũ khí được cung cấp cho các nước COMECON và xuất khẩu sang các nước khác ngoài khối như Ai Cập, Syria, Indonesia, Nigeria và Uganda. L-29 đã được sử dụng trong nội chiến Nigeria cuối những năm 1960s và trong biên chế của Không quân Ai Cập đối đầu với xe tăng Israel trong chiến tranh Yom Kippur năm 1973. Máy bay L-39 Albatros được thiết kế vào những năm 1960s để thay thế cho Aero L-29 Delfín. Một vài phiên bản thiết kế dựa trên L-39 cũng nhanh chóng được giới thiệu. Năm 1972, phiên bản kéo theo mục tiêu bay L-39V, thực hiện chuyến bay thử đầu tiên. Đến năm 1975, công ty tiếp tục đưa ra thị trường mẫu máy bay chiến đấu/huấn luyện L-39ZO, trang bị bốn mấu cứng cũng như cánh máy bay được tăng độ cứng và càng hạ cánh được thiết kế lại. Năm 1977, mẫu máy bay tiêm kích hạng nhẹ L-39ZA ra đời, được trang bị thêm một khẩu GSh-23 gắn dưới thân, còn lại tương tự như L-39 ZO. Có khoảng 200 chiếc L-39 đã được bán làm máy bay huấn luyện cho không quân các nước cuối những năm 1980s. Công ty ngừng bán ra L-39 kể từ những năm 1990s do mất các đơn đặt hàng truyền thống từ các nước khối Warsaw. Đến năm 1996, việc sản xuất L-39 kết thúc. Aero Vodochody cũng phát triển các phiên bản khác nhau của L-39, đồng thời tiến hành bảo trì, nâng cấp và kéo dài tuổi thọ máy bay cho các nước có trang bị L-39. Nổi tiếng nhất trong các phiên bản của L-39 là L-59 Super Albatros, ban đầu có mã hiệu là L-39MS. Aero chỉ sản xuất số lượng ít máy bay L-59 rồi ngừng sản xuất. Một phiên bản khác của L-39 Albatros là L-159 Alca, phiên bản máy bay chiến đấu được hiện đại hóa. Những năm 2010s, Aero Vodochody chế tạo máy bay L-159 cao cấp và máy bay trực thăng Sikorsky S-76. Công ty cũng tham gia sản xuất thân máy bay Alenia C-27J Spartan, lắp ráp cửa máy bay Embraer 170 và Embraer 190, buồng lái máy bay trực thăng Sikorsky UH-60 Black Hawk, Boeing F/A-18E/F Super Hornet, sản xuất các bộ phận của Airbus A320, mép trước cánh của Boeing 767. Công ty cũng dadng tiến hành nâng cấp sân bay Vodochody để chở khách và hàng hóa giá rẻ cho khu vực thủ đô Prague. Tháng Bảy năm 2014, Aero Vodochody giới thiệu chiếc L-39NG tại Farnborough Airshow. Tháng Tư năm 2015, công ty ký hợp đồng liên kết với nhà thầu quốc phòng của Mỹ là Draken International và công ty sản xuất động cơ Williams International để thực hiện chương trình sản xuất L-39NG cho thị trường Bắc Mỹ. Theo đó L-39NG được phát triển theo hai giai đoạn. Giai đoạn 1 (Stage 1), các kỹ sư sẽ lắp đặt động cơ FJ44-4M và giai đoạn 2 sẽ lắp đặt các thiết bị điện tử lên các máy bay L-39 Albatros vẫn còn trong biên chế. Giai đoạn hai sẽ bắt đầu chế tạo mới hoàn toàn L-39NG với các bộ phận nhiều khả năng đã được sử dụng để nâng cấp ở giai đoạn 1, khi thân vỏ đã đạt đến mức tối đa có thể sử dụng. Giai đoạn nâng cấp 1 đã hoàn thành vào ngày 14 tháng Chín năm 2015 với chuyến bay thử đầu tiên của L-39NG (bay trình diễn công nghệ (L-39CW)). Ngày 20 tháng Mười một năm 2017, Aero Vodochody tuyên bố đã hoàn tất việc phát triển L-39CW; ngày 14 tháng Ba năm 2018, L-39CW, được trang bị động cơ và hệ thống điện tử mới đã nhận được giấy chứng nhận để đổi tên hiệu thành L-39NG. Máy bay L-39NG mới thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 22 tháng Mười hai năm 2018. Tháng Chín năm 2020 chưa đầy hai năm sau đó, máy bay đã được chứng chỉ do Cục hàng không Bộ quốc phòng CH Séc cấp. Danh sách các máy bay của hãng nhỏ|Aero A-11 nhỏ|Aero Ae-145 nhỏ|Aero CS-102 nhỏ|Aero L-29 Delfín nhỏ|Aero L-39 Albatros nhỏ|Aero Vodochody L-159A ALCA
5,565
19833333
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marie-Galante
Marie-Galante
Marie-Galante (tiếng Antilles Creole: Mawigalant) là một trong những hòn đảo hình thành nên Guadeloupe, một vùng và tỉnh hải ngoại của Pháp. Marie-Galante có diện tích đất là 158,1 km2 (61,0 dặm vuông). Nó có 11.528 cư dân vào đầu năm 2013, nhưng đến đầu năm 2018, tổng dân số được ước tính chính thức là 10.655, với mật độ dân số là 62,5/km2 (162/sq mi). Hành chính Marie-Galante được chia thành 3 xã (với dân số tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2013): -Grand-Bourg (5.564 người) -Capesterre-de-Marie-Galante (3.389 người) -Saint-Louis (2.575 người) Ba xã này đã thành lập một thực thể liên xã vào năm 1994: Cộng đồng các xã Marie-Galante (tiếng Pháp: communauté de Communis de Marie-Galante). Đây là cơ cấu liên xã lâu đời nhất của các Vùng hải ngoại của Pháp.
757
19833334
https://vi.wikipedia.org/wiki/La%20D%C3%A9sirade
La Désirade
La Désirade (; tiếng Antiles creole: Dézirad hoặc Déziwad) là một hòn đảo cấu thành nên Guadeloupe, một vùng và tỉnh hải ngoại của Pháp ở vùng Caribe, nó là một trong sáu hòn đảo có người ở của Guadeloupe. Bằng chứng khảo cổ học đã được phát hiện cho thấy rằng người Mỹ bản địa đã sống ở La Désirade từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ 16. Đảo dài 11 km, rộng 2 km; phần bên trong hòn đảo tạo thành một cao nguyên trung tâm. Nó có diện tích 20,64 km2 (7,97 dặm vuông) và dân số 1.595 người vào năm 2006, với mật độ dân số 77 người/km2 vào năm 2006. Hầu hết cư dân sống ở khu định cư Beauséjour (trước đây gọi là Grande-Anse).
616
19833335
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%8Eles%20des%20Saintes
Îles des Saintes
Îles des Saintes (; ), còn được gọi là Les Saintes (tiếng Antilles Creole: Lésent, ), là một nhóm đảo nhỏ cấu thành nên Guadeloupe, một vùng và tỉnh hải ngoại của Pháp. Nó là một phần của Tổng Trois-Rivières và được chia thành hai xã: Terre-de-Haut và Terre-de-Bas. Nó nằm ở quận Basse-Terre và khu vực bầu cử thứ 4 của Guadeloupe. Les Saintes là một quần đảo núi lửa được bao quanh hoàn toàn bởi các rạn san hô nông. Nó phát sinh từ vành đai núi lửa gần đây của Tiểu Antilles từ Thế Pliocen. Nó bao gồm các loại đá xuất hiện vào Phân đại Đệ Tam giữa (4,7 đến 2 triệu năm trước). Về nguồn gốc, đây là một hòn đảo độc đáo được tách ra từ các trận động đất kiến tạo và động đất núi lửa để tạo thành một quần đảo do đới hút chìm giữa mảng Nam Mỹ, mảng Bắc Mỹ và mảng Caribe. Tổng diện tích là 12,8 km2 (4,9 dặm vuông). Quần đảo có bờ biển dài khoảng 22 km (14 mi) và địa điểm cao nhất của nó là Chameau ("Lạc đà") trên [[đảo Terre-de-Haut]], đạt tới độ cao khoảng 309 mét (1.014 ft). Bán đảo Pain de sucre, với chiều cao (53 mét (174 ft)) được nối với Terre-de-Haut bằng một eo đất. Nó nằm giữa hai bãi biển nhỏ. Nó được hình thành bởi sự liên kết của bazan cột.
1,160
19833342
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yann%20Aurel%20Bisseck
Yann Aurel Bisseck
Yann Aurel Ludger Bisseck (sinh ngày 29 tháng 11 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Inter Milan tại Serie A. Danh hiệu Cá nhân -Huy chương Fritz Walter Huy chương đồng U-19: 2019
242
19833363
https://vi.wikipedia.org/wiki/Magnesi%20sulfat%20%28d%C3%B9ng%20trong%20y%20t%E1%BA%BF%29
Magnesi sulfat (dùng trong y tế)
Magnesi sulfat như một loại thuốc được sử dụng để điều trị và ngăn ngừa chứng magiê máu thấp và co giật ở phụ nữ bị sản giật. Nó cũng được sử dụng trong điều trị xoắn đỉnh, hen suyễn nặng, táo bón và ngộ độc bari. Nó được đưa vào cơ thể bằng cách tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm cơ bắp cũng như qua miệng. Là muối epsom, nó cũng được sử dụng cho phòng tắm khoáng. Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm huyết áp thấp, đỏ da và calci máu thấp. Các tác dụng phụ khác có thể bao gồm nôn mửa, yếu cơ và giảm nhịp thở. Mặc dù có bằng chứng cho thấy sử dụng trong khi mang thai có thể gây hại cho em bé, nhưng lợi ích trong một số điều kiện nhất định lớn hơn rủi ro. Việc sử dụng nó trong thời gian cho con bú được coi là an toàn. Magnesi sulfat cho sử dụng y tế là muối heptahydrat magnesi sulfat. Cách thức hoạt động của nó không được hiểu đầy đủ, nhưng được cho là liên quan đến việc làm giảm hoạt động của các tế bào thần kinh. Magnesi sulfat được sử dụng trong y tế ít nhất là sớm nhất là vào năm 1618. Nó nằm trong Danh sách các loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần có trong hệ thống y tế. Chi phí bán buôn ở các nước đang phát triển là khoảng 0,35 USD8,73 mỗi 10   ml dung dịch 50%. Ở Vương quốc Anh 4ml dung dịch 20% có giá khoảng 10,23 pound. Ở Hoa Kỳ, một liều đầy đủ của thuốc này thường có giá dưới 25 đô la.
1,355
19833369
https://vi.wikipedia.org/wiki/Misaki%2C%20Okayama
Misaki, Okayama
là thị trấn thuộc huyện Kume, tỉnh Okayama. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 13.053 người và mật độ dân số là 56 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 232,17 km².
192
19833393
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nagi%2C%20Okayama
Nagi, Okayama
là thị trấn thuộc huyện Katsuta, tỉnh Okayama. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 5.578 người và mật độ dân số là 80 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 69,52 km². Lịch sử Địa lý Khí hậu Nhân khẩu Dân số Kinh tế
241
19833404
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%81n%20t%E1%BA%A3ng%20%C4%91%C3%B3ng
Nền tảng đóng
Nền tảng đóng, vườn tường hoặc hệ sinh thái đóng là một hệ thống phần mềm trong đó nhà cung cấp dịch vụ truyền dẫn hoặc nhà cung cấp dịch vụ có quyền kiểm soát các ứng dụng, nội dung và/hoặc phương tiện và hạn chế quyền truy cập thuận tiện đối với những người đăng ký hoặc nội dung không được phê duyệt. Điều này trái ngược với một nền tảng mở, trong đó người tiêu dùng thường có quyền truy cập không hạn chế vào các ứng dụng và nội dung. Tổng quan Ví dụ, trong lĩnh vực viễn thông, các dịch vụ và ứng dụng có thể truy cập trên điện thoại di động trên bất kỳ thiết bị không dây nào trước đây đều được các nhà khai thác mạng di động kiểm soát chặt chẽ. Các nhà khai thác hạn chế các ứng dụng và nhà phát triển có sẵn trên cổng thông tin và trang chủ của người dùng. Do đó, nhà cung cấp dịch vụ có thể hạn chế quyền truy cập của người dùng đối với những người dùng đã hết tiền trả trước trong tài khoản của họ. Đây từ lâu đã là vấn đề trọng tâm cản trở lĩnh vực viễn thông, vì các nhà phát triển phải đối mặt với những rào cản lớn trong việc đưa các ứng dụng của họ cho người dùng cuối. Trong một ví dụ điển hình hơn, hệ thống điện thoại Mỹ được kiểm soát chặt chẽ vào những năm 1970, Bell, sở hữu tất cả phần cứng (bao gồm tất cả điện thoại) và có quyền kiểm soát gián tiếp đối với thông tin được gửi qua cơ sở hạ tầng của họ. Đó là một kiểu độc quyền tự nhiên được chính phủ phê chuẩn và được điều chỉnh bởi Đạo luật Truyền thông năm 1934. Tuy nhiên, trong vụ kiện mang tính bước ngoặt Hush-A-Phone v. United States, Bell đã kiện không thành công một công ty sản xuất phụ kiện điện thoại bằng nhựa. Nói chung, một vườn tường có thể được hiểu là một tập hợp các dịch vụ thông tin đóng hoặc độc quyền được cung cấp cho người dùng. Giống như một vườn tường thực sự, người dùng không thể thoát khỏi môi trường đóng này trừ khi thông qua các điểm ra/vào được chỉ định hoặc nếu bức tường bị loại bỏ. Các khía cạnh Một bài báo nghiên cứu của Trường Kinh doanh Harvard năm 2008, có tựa đề "Nền tảng mở: Bằng cách nào, Khi nào và Tại sao?", đã phân biệt tính mở/đóng của một nền tảng theo bốn khía cạnh và đưa ra các nền tảng ví dụ: Ví dụ Một số ví dụ về vườn tường bao gồm: -Vào những năm 1990, AOL đã phát triển cái mà sau này được gọi là mô hình dịch vụ "vườn tường". Ý tưởng là ưu tiên cung cấp nội dung được tài trợ cho người dùng khi có thể. Trong thời gian này, CBS đã trả tiền để cung cấp nội dung thể thao, ABC đã trả tiền để cung cấp tin tức và 1-800-Flowers trả tiền để trở thành nhà cung cấp hoa mặc định cho bất kỳ ai tìm kiếm một nhà cung cấp hoa. Chiến lược này đã trở thành phương pháp bán quảng cáo hiệu quả đầu tiên của AOL. Vào thời đó, phương pháp này mang lại lợi nhuận cao cho AOL. -Dòng thiết bị đọc sách điện tử Kindle của Amazon. Như một bài báo của Business Insider tháng 10 năm 2011 có tựa đề "Cách Amazon kiếm tiền từ Kindle" đã nhận xét: "Kindle của Amazon không còn chỉ là một sản phẩm: Nó là cả một hệ sinh thái." Ngoài ra, Business Insider cũng lưu ý rằng “Hệ sinh thái Kindle cũng là sản phẩm phát triển nhanh nhất của Amazon và có thể chiếm hơn 10% doanh thu của công ty vào năm tới”. -Apple iOS và các thiết bị di động khác chỉ được phép chạy các ứng dụng đã được phê duyệt trước từ một dịch vụ phân phối kỹ thuật số. -Các thiết bị Nook của Barnes & Noble. Vào cuối tháng 12 năm 2011, B&N bắt đầu tung ra bản cập nhật chương trình cơ sở tự động, không dây 1.4.1 cho Nook Tablets, loại bỏ khả năng người dùng có quyền truy cập root vào thiết bị và khả năng tải ứng dụng từ các nguồn khác ngoài NOOK Store của Barnes and Noble (nếu không mod). Các thiết bị Nook HD cũng bị "đóng" tương tự, cho đến tháng 5 năm 2013, khi BN mở rộng hệ sinh thái của mình một chút bằng cách cho phép người dùng cài đặt Cửa hàng Google Play và các ứng dụng Android khác nhau được cung cấp trên đó, bao gồm cả các ứng dụng của đối thủ, chẳng hạn như Audible.com, ComiXology, Kindle, Kobo và chính Google. -Tiêu chuẩn Tiện ích mở rộng phương tiện được mã hóa cung cấp các API để kiểm soát việc phát lại nội dung được mã hóa. Đây là một phần tiêu chuẩn web của World Wide Web Consortium và được biên soạn bởi các thành viên làm việc từ Google, Microsoft và Netflix. -Kwangmyong, dịch vụ mạng nội bộ quốc gia hoạt động ở Triều Tiên. Nó hoạt động như một mạng "vườn tường", vì không có thông tin nào từ nước ngoài được phép vào mạng mà không có sự chấp thuận của chính phủ. -Mạng CDMA của Verizon Wireless và các chính sách cấm kích hoạt các thiết bị không được Verizon phê chuẩn trên mạng của họ thường được biết đến (và thường bị chỉ trích) vì cách làm này.[cần dẫn nguồn] -Blockchain được cấp phép đã được gọi là “vườn tường” của năm 2017. -Máy chơi trò chơi điện tử có lịch sử lâu đời về các nền tảng vườn tường, trong đó các nhà phát triển cần mua giấy phép để phát triển cho nền tảng này và trong một số trường hợp, cần có sự chấp thuận của nhà sản xuất máy chơi trò chơi trước khi xuất bản trò chơi. -Các siêu ứng dụng như WeChat được các nhà phê bình gọi là vườn tường.
4,985
19833407
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jacob%20Ramsey
Jacob Ramsey
Jacob Matthew Ramsey (sinh ngày 28 tháng 5 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Aston Villa tại . Danh hiệu U21 Anh -Giải vô địch U-21 châu Âu: 2023 Cá nhân -Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Học viện Aston Villa: 2018–19 -Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất mùa giải của Aston Villa: 2021–22, 2022–23 -Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Aston Villa: 2021–22 -Học viện Premier League học viên xuất sắc nhất mùa giải: 2022–23
477
19833409
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C4%A9%20%C3%81i%20Vi%20Doanh
Dĩ Ái Vi Doanh
Dĩ Ái Vi Doanh (tiếng Trung: 以爱为营, bính âm: Yǐ ài wéi yíng, ), là dự án phim truyền hình hiện đại của Trung Quốc đại lục, được chuyển thể từ tiểu thuyết ngôn tình Trêu Nhầm (Cưa nhầm bạn trai được chồng như ý) của tác giả Kiều Diêu. Bộ phim khai máy vào ngày 22 tháng 11 năm 2022 và đóng máy ngày 20 tháng 3 năm 2023 . Dĩ Ái Vi Doanh đánh dấu màn hợp tác đầu tiên của cặp đôi diễn viên trẻ nổi tiếng - Bạch Lộc và Vương Hạc Đệ. Cùng với những cái tên khác như Ngụy Triết Minh, Châu Kha Vũ, Nhiếp Viễn, Vương Diệu Khánh... Phim chính thức được cấp giấy phép phát sóng vào ngày 4 tháng 9 năm nay. Nội dung "Trêu nhầm đối tượng, yêu đúng người" Tổng tài Thời Yến của công ty Minh Dự Vân Sang vừa đẹp trai lại nhiều tiền. Nhưng anh không vì có bối cảnh gia đình lớn mạnh mà ngồi yên hưởng thụ. Anh đã vượt qua giới hạn và định kiến của dư luận, tự mình kinh doanh và gây dựng sự nghiệp riêng. Trịnh Thư Ý là phóng viên của báo Tài chính Kinh tế. Bởi vì ngoại hình xinh đẹp mà bị mọi người coi là bình hoa di động, xem nhẹ tài hoa và sự chuyên nghiệp của cô. Nhưng cô đã dùng những tác phẩm xuất sắc chứng minh được thực lực của mình. Hai người bọn họ gặp nhau, tạo nên một câu chuyện huyền thoại trong giới tài chính Giang Thành. Tuy mang hào quang của gia tộc nhưng không vì thế mà Thời Yến bị trách nhiệm gia tộc trói buộc. Anh kiên định thực hiện ý tưởng tài chính "mang lại lợi ích cho dân chúng", dùng khả năng của mình giúp đỡ cho xã hội. Nhờ vào ánh mắt tinh tường và sự quyết đoán của mình, anh đã chứng minh được thực lực của bản thân, dùng ba năm ngắn ngủi khiến công ty có chỗ đứng vững chắc trong ngành. Anh hi vọng có thể dẫn dắt Minh Dự Vân Sang phát triển mạnh mẽ hơn nữa, giúp đỡ được nhiều người hơn. Trong quá trình tìm hiểu và thăm dò thị trường, phóng viên báo Kinh tế Tài chính Trịnh Thư Ý đã lọt vào tầm mắt của anh. Liên tục giành được trang đầu tạp chí Kinh tế và Tài chính, sự nghiệp đang dần thăng hoa thì Trịnh Thư Ý lại bị mối tình đầu phản bội. Bạn trai của cô đã ngoại tình với cháu gái tổng tài của một công ty đầu tư. Tình cảm bao năm giờ đã tan biến, Trịnh Thư Ý quyết định biến đau thương thành động lực, nhận hết tất cả trang đầu tạp chí và chứng minh mình có năng lực làm chủ biên báo điện tử. Cô tìm mọi cơ hội để được phỏng vấn Thời Yến, lại phát hiện Thời Yến chính là "ông cậu" của cô gái mà bạn trai cũ của cô ngoại tình. Thông qua cuộc phỏng vấn, Trịnh Thư Ý đã cảm nhận được sự chuyên nghiệp, tầm nhìn xa trông rộng và sự nhạy bén trong cách suy nghĩ của Thời Yến. Thời Yến cũng nhận thấy được năng lực của cô, sự kiên nhẫn và khả năng tiếp thu kiến thức mới một cách nhanh chóng; đồng thời giúp anh hiểu hơn về năng lực của giới truyền thông. Sau nhiều lần tiếp xúc, va chạm, hai người dần hiểu rõ và tiến gần nhau hơn. Nhưng khi Minh Dự Vân Sang chuẩn bị bước sang một nấc thang mới thì lại rơi vào một cuộc khủng hoảng chưa từng có. Trịnh Thư Ý luôn tin tưởng vào khả năng của Thời Yến. Cô đã dùng ngòi bút đưa tin, dùng sức mạnh của truyền thông để làm sáng tỏ chân tướng sự thật, trợ giúp Thời Yến vượt qua được giai đoạn khó khăn. Cuối cùng Thời Yến đã giải quyết được cuộc khủng hoảng một cách êm đẹp. Hai người vượt qua được cửa ải khó khăn, mở ra một con đường phát triển sự nghiệp mới và có được một tình yêu trọn vẹn. Diễn viên Diễn viên chính Các diễn viên khác Phát sóng
3,322
19833435
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aaron%20Cresswell
Aaron Cresswell
Aaron William Cresswell (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ West Ham United tại Premier League.
178
19833438
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ben%20Johnson%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%2C%20sinh%202000%29
Ben Johnson (cầu thủ bóng đá, sinh 2000)
Benjamin Anthony Johnson (sinh ngày 24 tháng 1 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ West Ham United tại . Danh hiệu West Ham United -UEFA Europa Conference League: 2022–23. U21 Anh -Giải vô địch U21 châu Âu: 2023 Cá nhân -Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của West Ham United: 2020–21, 2021–22
350
19833441
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jarrod%20Bowen
Jarrod Bowen
Jarrod Bowen (sinh ngày 20 tháng 12 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh hoặc tiền đạo cho câu lạc bộ West Ham United tại và đội tuyển quốc gia Anh.
199
19833442
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joseph%20Anang
Joseph Anang
Joseph Tetteh Anang (sinh ngày 8 tháng 6 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ West Ham United tại .
149
19833447
https://vi.wikipedia.org/wiki/Luciana%20Fuster
Luciana Fuster
Luciana Fuster (sinh ngày 14 tháng 1 năm 1999) là hoa hậu, người mẫu Peru đã đăng quang Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2023. Cô là thí sinh đến từ Peru mang về chiến thắng lần hai cho đất nước của mình và cũng là quốc gia đầu tiên có hai chiếc vương miện trong cuộc thi sắc đẹp này. Đây là chiến thắng lặp lại đầu tiên của một quốc gia trong lịch sử của cuộc thi Hoa hậu Hòa bình Quốc tế, theo đó Peru đã chiến thắng vào năm 2017 cũng diễn ra tại Việt Nam. Thời thơ ấu và giáo dục Cô sinh ra ở Callao, vào ngày 14 tháng 1 năm 1999, trong một gia đình trung lưu. Cô học tiểu học và trung học tại Trường Lyceum Hải quân Almirante Guise, nằm ở quận San Borja . Từ khi còn là một thiếu niên, cô đã cống hiến hết mình để trở thành một vận động viên bóng chuyền và bóng rổ trong các giải vô địch địa phương trong hạng mục của mình, với sự tham gia nhỏ trên sân.
849
19833454
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%B9ng%20r%C3%A1c
Thùng rác
Thùng rác là loại thùng chứa rác, thường được làm bằng kim loại, nhựa, gỗ hoặc bằng mây. Thùng rác đạp chân được Lillian Moller Gilbreth, một kỹ sư công nghiệp phát minh vào những năm 1920 để xử lý rác thải nhà bếp. Trong những năm 2010, một số loại thùng rác đã bắt đầu có các cơ chế tự động như nắp có cảm biến hồng ngoại trên đầu thùng và được cấp nguồn pin để mở thay vì bàn đạp, giải phóng người dùng khỏi việc chạm vào thùng rác. Ngày nay, hầu hết mỗi hộ gia đình hầu điều có ít nhất 1 thùng rác để chứa rác thải sinh hoạt. Ở các khu vực công cộng như công viên thường có những thừng rác để cải thiện môi trường và khuyến khích mọi người không xả rác. Những thùng rác này được đặt ngoài trời hoặc các khu vực đông đúc. Ở các khu đô thị đông đúc, rác thường được chôn dưới lòng đất bên dưới thùng chứa. Chú thích Tái chế Thiết bị đường phố Thùng rác
854
19833457
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%93n%20ti%E1%BB%83u%20nam
Bồn tiểu nam
Bồn tiểu nam (tiếng Anh: urinal) (, ) là một thiết bị vệ sinh được sử dụng để đi tiểu. Bồn tiểu thường được lắp đặt trong nhà vệ sinh công cộng dành cho nam giới. Bồn tiểu có thể xả bằng tay, xả tự động hoặc không xả như trường hợp bồn tiểu không dùng nước. Bồn tiểu dành cho phụ nữ ("bồn tiểu nữ") cũng tồn tại nhưng rất hiếm. Phụ nữ có thể sử dụng bồn tiểu đứng bằng cách sử dụng thiết bị đi tiểu nữ. Chú thích
412
19833461
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%93n%20ti%E1%BB%83u%20n%E1%BB%AF
Bồn tiểu nữ
Bồn tiểu nữ (tiếng Anh: female urinal) là một loại bồn tiểu được thiết kế dành riêng cho phụ nữ. Nó có nhiều kiểu dáng khác nhau, cho phép phụ nữ đi tiểu trong tư thế đứng, ngồi xổm một nửa hoặc ngồi xổm hoàn toàn, nhưng cơ thể không tiếp xúc trực tiếp với bồn tiểu. Ngoài ra, còn có một số loại bồn tiểu ngồi, được thiết kế để có tiếp xúc của cơ thể với bồn tiểu.
364
19833462
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%93n%20ti%E1%BB%83u
Bồn tiểu
Bồn tiểu là một thiết bị vệ sinh được sử dụng để đi tiểu. Nó có thể là: -Bồn tiểu nam -Bồn tiểu nam Nhà vệ sinh
111
19833475
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A3o%20Otis
Bão Otis
Bão Otis là cơn bão nhiệt đới có phạm vi gió mạnh hẹp nhưng sức gió duy trì (cận tâm) rất mạnh đã đổ bộ vào gần Acapulco với sức gió tương đương bão cấp 5. Otis là cơn bão ở khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương đầu tiên đổ bộ vào đất liền với cường độ cấp 5 và vượt qua Bão Patricia để trở thành cơn bão đổ bộ mạnh nhất vào đất liền ở khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương được ghi nhận. Là cơn bão nhiệt đới thứ mười lăm, cơn bão cuồng phong thứ mười, cơn bão cuồng phong lớn thứ tám, và cơn bão cấp 5 thứ hai của mùa bão Bắc Thái Bình Dương phía Đông đường đổi ngày năm 2023 (2023 Pacific hurricane season), Otis hình thành từ một vùng nhiễu động nhiệt đới cách Vịnh Tehuantepec vài trăm dặm về phía nam. Các dự báo đầu tiên của NHC cho rằng Otis khi mạnh nhất chỉ là một cơn bão nhiệt đới yếu, nhưng Otis đã trải qua quá trình tăng cường nhanh chóng để đạt tốc độ gió duy trì trong 1 phút mạnh nhất là 145 kt (khoảng 270 km/h) và đổ bộ vào đất liền với cường độ cực đại. Khi vào đất liền, cơn bão nhanh chóng suy yếu trước khi tan vào ngày hôm sau. Dù là một cơn bão rất mạnh nhưng bán kính gió mạnh hẹp và thời gian tồn tại tương đối ngắn (khoảng 3 ngày). Lịch sử khí tượng học Trung tâm Bão quốc gia Hoa Kỳ (NHC) lần đầu tiên dự báo vào ngày Chủ nhật ngày 15 tháng 10 rằng rằng một vùng áp thấp dự kiến ​​sẽ hình thành ở phía nam Guatemala và El Salvador vào giữa tuần sau.Một vùng áp thấp với tổ chức tương đối rời rạc và rộng hình thành cách Vịnh Tehuantepec vài trăm dặm về phía nam vào ngày 18 tháng 10 và tạo ra những cơn giông vô tổ chức. Hệ thống đã tăng cường tổ chức trong vài ngày tiếp theo, trở thành áp thấp nhiệt đới vào lúc 15:00  UTC ngày 22 tháng 10. Vào thời điểm đó, áp thấp nhiệt đới có hoạt động đối lưu mạnh, gia tăng gần tâm và được xác định rõ của nó.  Sáu giờ sau, áp thấp nhiệt đới được NHC tuyên bố là mạnh lên thành bão nhiệt đới và được đặt tên là Otis sau khi sự tổ chức của áp thấp nhiệt đới tốt hơn. Cơn bão mới hình thành đang di chuyển chậm về phía bắc vì nó nằm trong dòng dẫn yếu giữa một rãnh áp thấp ở phía tây bắc và một rìa áp cao ở phía đông bắc.Qua đêm, đối lưu sâu xuất hiện ở góc phần tư phía tây bắc của hoàn lưu với phần trung tâm trở nên ẩn đi dưới các đỉnh mây lạnh hơn.Tuy nhiên, xu hướng đối lưu này đã bị chững lại vào khoảng đầu ngày 23 tháng 10 do gió đứt ở phía đông cơn bão, cản trở việc tổ chức sâu hơn và khiến trung tâm cơn bão lộ ra một phần trên ảnh mây vệ tinh.Đến 03:00 UTC ngày 24 tháng 10, hình ảnh vi sóng tần số 37 GHz từ vệ tinh mô tả cấu trúc giống như xoắn vào trung tâm ở cấp thấp, mặc dù hình ảnh vệ tinh bề ngoài tổng thể của hệ thống tương đối xấu và trông giống như bị cắt xén. NHC lưu ý hình ảnh này có thể là bằng chứng cho thấy rằng sự tăng cường nhanh chóng (rapid intensification) của bão sắp xảy ra. Đến sáng ngày 24 tháng 10, Otis đã tổ chức với đối lưu tăng lên và dòng phân kì (outflow) mạnh và lan rộng. Sự tăng cường nhanh chóng bắt đầu, được hỗ trợ bởi gió đứt hướng đông nam giảm dần và nhiệt độ bề mặt biển ấm ở mức 29–31 °C (84–88 °F).Trên hình ảnh vệ tinh có thể nhìn thấy (visible satellite image), một con mắt trở nên rõ ràng và theo NHC thì Otis đã mạnh lên thành bão cấp 3 trước 21:00 UTC ngày 24 tháng 10. Việc nâng cấp này dựa trên các phép đo từ máy bay trinh sát của Phi Đoàn Trinh Sát Thời Tiết thuộc NOAA. Các phép đo này cho thấy Otis mạnh hơn đáng kể so với ước tính cường độ bằng kỹ thuật Dvorak dựa trên hình ảnh vệ tinh và Otis đang trải qua quá trình tăng cường nhanh chóng, với áp suất bề mặt trung tâm giảm 10 milibar (0,30 inHg) giữa các lần khảo sát của chuyến bay trinh sát.NHC tiếp tục quan sát thấy mức độ tổ chức của cơn bão ngày càng tăng trên hình ảnh vệ tinh trong suốt cả ngày mà chưa thấy có dấu hiệu cho thấy sự tăng cường ngừng lại. Lúc 03:00 UTC ngày 25 tháng 10, NHC cho rằng bão Otis đã mạnh llên thành bão cấp 5. Trong 24 giờ, Otis đã mạnh lên từ cơn bão nhiệt đới với tốc độ gió duy trì 45 kt (85 km/h) lên cơn bão cấp 5 với tốc độ gió duy trì 140 kt (260 km/h), tốc độ gió tăng thêm 95 kt (175 km/h) theo dữ liệu ban đầu, chỉ đứng sau bão Patricia (2015) là cơn bão mức tăng cường độ kỷ lục trong 24 giờ lớn nhất ở Đông Bắc Thái Bình Dương theo dữ liệu tốt nhất. Mặc dù có cường độ rất mạnh, Otis là một cơn bão có kích thước tương đối nhỏ, phạm vi gió mạnh hẹp với bán kính gió mạnh tương đương gió của một cơn bão được NHC ước tính khoảng 60 hải lý (110 km) tính từ tâm bão. Sau khi trở thành bão cấp 5, Otis mạnh hơn một chút và vào lúc 06:25 UTC ngày 25 tháng 10, cơn bão đổ bộ vào gần Acapulco với cường độ cực đại, với sức gió ước tính là 145 kt (270 km/h) và áp suất trung tâm 923 mb (27,26 inHg),trở thành cơn bão ở khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương đầu tiên được ghi nhận đổ bộ vào đất liền ở cường độ cấp 5, do đó vượt qua Patricia để trở thành cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Đông Bắc Thái Bình Dương. Otis nhanh chóng suy yếu sau khi đổ bộ vào đất liền, suy yếu thành bão nhiệt đới lúc 18:00 UTC và tan trong vòng ba giờ sau đó. Dự báo bão không chính xác với sai số dự báo rất cao Cường độ cao nhất của bão Otis vượt xa những gì NHC đã dự báo. Khi hệ thống mới hình thành, ba ngày trước khi đổ bộ, dự báo của NHC cho rằng Otis sẽ không đổ bộ mà dự báo bão đi uốn cong theo hình Parabol về phía tây như một cơn bão nhiệt đới yếu;hai ngày sau, chỉ 24 giờ trước khi cơn bão đạt cường độ cấp 5, NHC dự báo cường độ cực đại chỉ đạt 60 kt (110 km/h).Các dự dự báo sau đó chuyển sang kịch bản bão Otis đổ bộ, nhưng thậm chí chỉ 16 giờ trước khi đổ bộ, NHC đã dự bão rằng Otis bão sẽ đạt cực đại với sức gió duy trì 80 kt (150 km/h), tức là chỉ tương đương với bão cuối cấp 1. Dự báo này cũng cho biết Otis sẽ đổ bộ vào đất liền trong khoảng thời gian từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều theo giờ địa phương (12:00 UTC và 00:00 UTC ngày hôm sau) vào ngày 25 tháng 10, gần một ngày sau khi nó thực sự tiến vào đất liền. Các mô hình dự báo thời tiết số hoá đã không dự báo được mức độ tăng cường rất nhanh chóng xảy ra, một phần do thiếu dữ liệu quan trắc khí tượng, chỉ có một chuyến bay của máy bay trinh sát và không có radar ở khu vực đổ bộ, trong khi đối với cơn bão ở Đại Tây Dương, đặc biệt là các cơn bão ảnh hưởng đến Hoa Kì máy bay trinh sát được sử dụng rất thường xuyên và mạng lưới radar ở Hoa Kì tương đối nhiều. Một số lần chạy mô hình hoàn toàn không dự báo được sự đổ bộ.Một điều trùng hợp, vào năm 2017, cơn bão khác có cùng tên Otis không ảnh hưởng đến đất liền cũng có cường độ cực đại vượt xa dự báo của NHC với 3 dự báo đầu tiên của NHC khẳng định áp thấp nhiệt đới là tiền thân của bão Otis (2017) sẽ tan mà không trở thành bão nhiệt đới, nhiều dự báo khác cho đến dự đoán số 25 cũng cho rằng bão sẽ không vượt quá 55 kt (100 km/h), cuối cùng hệ thống đó được cho là có sức gió 100 kt (185 km/h) ở lần dự báo số 26. Ảnh hưởng Do ảnh hưởng của bão, trạm quan trắc khí tượng ở Ilsa Roqueta đã quan trắc được gió duy trì 81 dặm/h (130 km/h, cấp 12) và gió giật mạnh 135 dặm/h (217 km/h, cấp 17), áp suất mực nước biển (MSLP) thấp nhất quan trắc được là 957,4 hPa. Hơn 500.000 sự cố mất điện xảy ra trên toàn tiểu bang, các bệnh viện và khách sạn bị ảnh hưởng, trần nhà bị sập và lũ lụt lớn được báo cáo bên trong các khách sạn. Một số tòa nhà cũng bị hư hỏng nặng hoặc sụp đổ. 18 đài phát thanh ở Acapulco ngừng hoạt động và liên lạc trong thành phố bị cắt đứt. Một trung tâm mua sắm ở Acapulco bị phá hủy và một đoạn đường cao tốc dẫn vào thành phố bị đóng cửa sau một trận lở đất. Ngoài ra, một sân bay quân sự gần Acapulco đã bị hư hại, gây khó khăn cho hoạt động cứu hộ. Do tác động, các nơi trú ẩn tạm thời đã được mở ở Acapulco, Tecpán de Galeana và Coyuca de Benítez.Một số hãng hàng không bị ảnh hưởng bởi Otis, trong đó có Aeroméxico, Volaris và Viva Aerobus đã đình chỉ chuyển bay phục vụ đi và đến Acapulco và Zihuatanejo do ảnh hưởng của bão. Sân bay Quốc tế Acapulco, nơi mà tất cả các chuyến bay đã bị đình chỉ, không thể tiếp cận được ngay sau khi bão tan. Thương vong Tính đến ngày 30 tháng 10, có ít nhất 48 người tử vong và 36 người mất tích do bão theo thống kê chính thức.
8,032
19833487
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nishiawakura%2C%20Okayama
Nishiawakura, Okayama
là một ngôi làng thuộc huyện Aida, tỉnh Okayama. Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2023, dân số ước tính ngôi làng là 1.356 người và mật độ dân số là 23 người/km². Tổng diện tích ngôi làng là 57,97 km².
197
19833491
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20Sa%20%C4%90%E1%BA%A3o%20Ti%C3%AAu%2C%20T%C3%A2y%20Sa
Trung Sa Đảo Tiêu, Tây Sa
Trung Sa Đảo Tiêu (tiếng Trung: 中沙岛礁虛擬鎮, bính âm: Zhōngshā Dǎojiāo Xūnǐzhèn) là một hư nghĩ trấn (tương đương cấp thôn, tổ dân phố ở Việt Nam) thuộc quận Tây Sa, thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Đơn vị cư dân này có mã phân chia hành chính ban đầu là 469039 và mã phân chia hành chính hiện tại là 460323. Khu vực của hư nghĩ trấn gồm toàn bộ các đảo, đá của quần đảo Trung Sa. Trụ sở của hư nghĩ trấn Trung Sa Đảo Tiêu nằm trên đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough theo cách gọi của Trung Quốc). Hư nghĩ trấn Trung Sa Đảo Tiêu không có dân cư sinh sống thường xuyên và lâu dài, vì phần đất nổi thuộc đảo Hoàng Nham là quá nhỏ. Phân khu hành chính Hư nghĩ trấn Trung Sa Đảo Tiêu thuộc thẩm quyền của Ủy ban Cư dân Quần đảo Trung Sa, với đảo Hoàng Nham là trụ sở của chính quyền hư nghĩ trấn.
801
19833555
https://vi.wikipedia.org/wiki/Andrea%20Rubio
Andrea Rubio
Andrea Valentina Rubio Armas (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1998) là một người mẫu, nhà báo đến từ Venezuela. Cô đăng quang Hoa hậu Quốc tế 2023 và trở thành Hoa hậu Venezuela thứ 9 đăng quang tại đấu trường nhan sắc này. Cuộc đời và sự nghiệp Cuộc sống và giáo dục sớm Rubio sinh ra và lớn lên ở Caracas, Venezuela. Cha mẹ cô là Felipe Rubio và Marisela Armas. Ở tuổi 18, sau khi hoàn thành chương trình học cấp hai, cô chuyển đến Bogotá, Colombia do Cuộc khủng hoảng tại Venezuela. Rubio là một nhà báo và tốt nghiệp Đại học La Sabana ở Chía, Colombia với bằng về Truyền thông nghe nhìn và Đa phương tiện với trọng tâm là Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Cô nói được cả tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Chiều cao của cô là 1.71 mét. Các cuộc thi sắc đẹp Năm 2019, sự nghiệp người mẫu của cô được củng cố khi giành chiến thắng trong chương trình thực tế, La Agencia:Batalla de Modelos, do mạng Caracol Televisión sản xuất và phát sóng ở Medellín. Hoa hậu Venezuela 2022 Cuối năm 2022, Rubio trở lại Venezuela để tham gia Hoa hậu Venezuela 2022, với tư cách là một trong 24 thí sinh. Rubio thi đấu với tư cách Hoa hậu Portuguesa và giành chiến thắng Hoa hậu Venezuela 2022, được tổ chức vào ngày 16 tháng 11 năm 2022, tại Poliedro de Caracas. Rubio đã kế vị Hoa hậu Venezuela 2020, Isbel Parra của Vùng Guayana. Trong thời gian đương nhiệm, cô là người dẫn chương trình khách mời cho tạp chí buổi sáng Portadas al Día của Venevisión và là người đồng dẫn chương trình tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ Latin năm 2023 cho Venezuela như một phần trong quá trình chuẩn bị cho cuộc thi Hoa hậu Quốc tế. Ngoài ra, cô còn có một số cuộc gặp gỡ và hoạt động văn hóa với các thành viên của đại sứ quán Nhật Bản tại Caracas. Rubio cũng đã làm việc với Quỹ Chia sẻ vì Cuộc sống Colombia (Fundación Comparte por una Vida Colombia) trong 'Chiến dịch Nhân phẩm dành cho các cô gái nhập cư' (Diginidad para las niñas di cư) trong khuôn khổ 'Chương trình Tôi tự chăm sóc bản thân, tôi bảo vệ bản thân' (Programa Me Cuido, Me Protejo) và 'I Dream, I Can Program' (Programa Yo Sueño, Yo Puedo), trong quá trình gây quỹ của cung cấp và đóng góp vào giáo dục về kinh nguyệt, kỹ năng bảo vệ bản thân và giảm thiểu tác động bạo lực trên cơ sở giới của thanh thiếu niên sống ở biên giới Colombia-Venezuela, hỗ trợ người Venezuela có thu nhập thấp những cô gái trẻ nhập cư theo học tại Cơ sở giáo dục La Frontera nằm ở Villa del Rosario, Norte de Santander Sở. Hoa hậu Quốc tế 2023 Cô tham gia và xuất sắc đăng quang ngôi vị cao nhất, mang chiếc vương miện thứ 9 về cho Venezuela.
2,548
19833556
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sof%C3%ADa%20Os%C3%ADo
Sofía Osío
Sofía Osío Luna (sinh ngày 27 tháng 5 năm 2000) là một người mẫu, nhà giao tiếp xã hội và Hoa hậu, người đã đăng quang Hoa hậu Colombia 2022. Cô đại diện cho Colombia tại cuộc thi Hoa hậu Quốc tế 2023. Tuổi thơ Sofía sinh ra ở Barranquilla, Atlántico, Colombia. Cô là con gái của Fernán Osío và Susana Luna, đồng thời có ba anh chị em. Cô học trung học tại Colegio Hebreo Unión (Trường tiếng Do Thái Union) một tổ chức song ngữ đặt tại thành phố xuất xứ của cô, trong khi quá trình đào tạo học thuật tiếp theo của cô diễn ra tại Istituto Europeo di Design, đặt tại Barcelona, Tây Ban Nha, nơi cô tốt nghiệp chuyên ngành tiếp thị và truyền thông thời trang. Ngoài tiếng mẹ đẻ, cô còn thông thạo tiếng Anh. Từ khi còn trẻ, cô đã làm người mẫu cho nhiều thương hiệu khác nhau trên toàn quốc. Cuộc thi sắc đẹp Hoa hậu Atlántico 2022 Sự nghiệp tham gia các cuộc thi sắc đẹp của Sofía Osío bắt đầu vào tháng 6 năm 2022, khi cô được chỉ định là Miss Atlántico mới cho phiên bản tiếp theo của cuộc thi Miss Colombia (Concurso Nacional de Belleza), cuộc thi đó sẽ được tổ chức ra mắt vào tháng 11 cùng năm. Hoa hậu Colombia 2022 Trong cuộc thi, cô nổi bật là một trong những ứng cử viên được yêu thích nhất để giành được danh hiệu Hoa hậu Colombia mà Valentina Espinosa nắm giữ vào thời điểm đó. Màn trình diễn của cô trong suốt cuộc thi đã giúp cô trở thành người chiến thắng vào đêm ngày 13 tháng 11 năm 2022 tại thành phố Cartagena như thông lệ truyền thống của cuộc thi sắc đẹp. Chiến thắng của cô đã mang lại cho khoa của mình danh hiệu thứ 12 trong lịch sử của cuộc thi Hoa hậu Colombia, một danh hiệu mà khoa chưa có được kể từ Paulina Vega đăng quang Hoa hậu Colombia 2013. Hoa hậu Quốc tế 2023 Cô đại diện cho Colombia tại Hoa hậu Quốc tế 2023 ở Nhật Bản và giành vị trí Á hậu 1.
1,784
19833557
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%BA%BFt%20b%E1%BB%8B%20vi%E1%BB%85n%20th%C3%B4ng
Thiết bị viễn thông
Thiết bị viễn thông (còn gọi là thiết bị thông tin liên lạc) là các thiết bị phần cứng được sử dụng cho mục đích viễn thông. Kể từ những năm 1990, ranh giới giữa thiết bị viễn thông và phần cứng IT đã trở nên mờ nhạt do sự phát triển của internet và vai trò ngày càng tăng của nó trong việc truyền dữ liệu viễn thông. Hầu hết các thành phần thiết yếu của viễn thông hiện đại được xây dựng từ MOSFETs (metal–oxide–semiconductor field-effect transistors), bao gồm các thiết bị di động, bộ thu phát, mô-đun trạm gốc, bộ định tuyến, bộ khuếch đại công suất RF, bộ vi xử lý, chip nhớ và mạch viễn thông. Tính đến năm 2005, thiết bị viễn thông chiếm 16,5% thị trường bộ vi xử lý hàng năm. Chú thích
692
19833566
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jamaal%20Lascelles
Jamaal Lascelles
Jamaal Lascelles ( ; sinh ngày 11 tháng 11 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Newcastle United tại .
163
19833568
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rolex%20Shanghai%20Masters%202023
Rolex Shanghai Masters 2023
Rolex Shanghai Masters 2023 là một giải quần vợt thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời. Đây là lần thứ 12 giải Shanghai ATP Masters 1000 được tổ chức, một giải đấu ATP Tour Masters 1000 trong ATP Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Qizhong Forest Sports City Arena ở Shanghai, Trung Quốc từ ngày 4 đến ngày 15 tháng 10 năm 2023. Giải đấu được tổ chức trở lại kể từ năm 2019, sau khi giải đấu năm 2020, 2021 và 2022 bị hủy do đại dịch COVID-19 tại Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên vòng đấu chính nội dung đơn có 96 tay vợt tham dự. Nội dung đơn Hạt giống Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 25 tháng 9 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 2 tháng 10 năm 2023. Tay vợt rút lui khỏi giải đấu Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu. Vận động viên khác Đặc cách: - Bu Yunchaokete - Fabio Fognini - Diego Schwartzman - Shang Juncheng - Te Rigele Vượt qua vòng loại: - Térence Atmane - James Duckworth - Rinky Hijikata - Hsu Yu-hsiou - Aleksandar Kovacevic - Mikhail Kukushkin - Stefano Napolitano - Philip Sekulic - Dane Sweeny - Tseng Chun-hsin - Denis Yevseyev - Beibit Zhukayev Rút lui - Roberto Bautista Agut → thay thế bởi Fábián Marozsán - Matteo Berrettini → thay thế bởi Aslan Karatsev - Alexander Bublik → thay thế bởi Cristian Garín - Borna Ćorić → thay thế bởi Alexander Shevchenko - Novak Djokovic → thay thế bởi Nuno Borges - Dominik Koepfer → thay thế bởi Thanasi Kokkinakis - Kei Nishikori → thay thế bởi Jaume Munar - Milos Raonic → thay thế bởi Yosuke Watanuki - Emil Ruusuvuori → thay thế bởi Taro Daniel - Denis Shapovalov → thay thế bởi Alexandre Müller Nội dung đôi Hạt giống -Bảng xếp hạng vào ngày 25 tháng 9 năm 2023 Vận động viên khác Đặc cách: -Gonzalo Escobar / Aleksandr Nedovyesov -Li Zhe / Sun Fajing -Jannik Sinner / Zhang Zhizhen Thay thế: - Alexei Popyrin / Aleksandar Vukic Rút lui -Hubert Hurkacz / Mate Pavić → thay thế bởi Hubert Hurkacz / Ben Shelton -Adrian Mannarino / Fabrice Martin → thay thế bởi Ugo Humbert / Adrian Mannarino -Marcelo Melo / Alexander Zverev → thay thế bởi Rafael Matos / Marcelo Melo -Jannik Sinner / Zhang Zhizhen → thay thế bởi Alexei Popyrin / Aleksandar Vukic Nhà vô địch Đơn - Hubert Hurkacz đánh bại Andrey Rublev, 6–3, 3–6, 7–6(10–8) Đôi -Marcel Granollers / Horacio Zeballos đánh bại Rohan Bopanna / Matthew Ebden, 5–7, 6–2, [10–7]
2,455
19833578
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anthony%20Gordon%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
Anthony Gordon (cầu thủ bóng đá)
Anthony Michael Gordon (sinh ngày 24 tháng 2 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Newcastle United tại .
164
19833582
https://vi.wikipedia.org/wiki/Matt%20Targett
Matt Targett
Matthew Robert Targett (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Newcastle United Premier League. Anh đã đại diện cho cả Scotland và Anh ở các cấp độ trẻ. Danh hiệu Southampton -U21 Premier League Cup: 2014–15 Fulham -Vòng play-off EFL Championship: 2018 Aston Villa -Cúp EFL: Á quân 2019–20 Newcastle United -Cúp EFL: Á quân 2022–23 Anh U-21 -Toulon Tournament: 2016 Cá nhân -Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Aston Villa: 2020–21
500
19833585
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jacob%20Murphy
Jacob Murphy
Jacob Kai Murphy (sinh ngày 24 tháng 2 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Newcastle United tại Premier League. Danh hiệu Newcastle United -Á quân Cúp EFL: 2022–23
225
19833586
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joe%20Willock
Joe Willock
Joseph George Willock (sinh ngày 20 tháng 8 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Newcastle United tại Premier League. Danh hiệu Arsenal -Cúp FA: 2019–20 -Siêu cúp Anh: 2017, 2020 -Á quân UEFA Europa League: 2018–19 Newcastle United -Á quân Cúp EFL: 2022–23 Cá nhân -Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Premier League: Tháng 5 năm 2021
391
19833587
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mark%20Gillespie%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
Mark Gillespie (cầu thủ bóng đá)
Mark Joseph Gillespie (sinh ngày 27 tháng 3 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Newcastle United tại Premier League. Danh hiệu Newcastle United -Á quân Cúp EFL: 2022–23
230
19833588
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dan%20Burn
Dan Burn
Daniel Johnson Burn (sinh ngày 9 tháng 5 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Newcastle United tại . Danh hiệu Yeovil Town -Vòng play-off EFL League One: 2013 Wigan Athletic -EFL League One: 2017–18 Newcastle United -Á quân Cúp EFL: 2022–23 Cá nhân -Đội hình PFA của năm: League One 2017–18
350
19833615
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BB%20th%E1%BB%AD%20nghi%E1%BB%87m
Thẻ thử nghiệm
Thẻ thử nghiệm (tiếng Anh: test card), còn được gọi là mô hình thử nghiệm (tiếng Anh: test pattern) hoặc thử nghiệm khởi động/tắt máy (tiếng Anh: start-up/closedown test), là một tín hiệu thử nghiệm truyền hình, thường được phát sóng vào những thời điểm máy phát hoạt động nhưng không có chương trình nào được phát sóng (thường là khi bắt đầu và kết thúc chương trình). Chú thích
379
19833617
https://vi.wikipedia.org/wiki/Climate%20Change%20Denial%3A%20Heads%20in%20the%20Sand
Climate Change Denial: Heads in the Sand
Climate Change Denial: Heads in the Sand là một cuốn sách phi hư cấu năm 2011 về phủ nhận biến đổi khí hậu, do Haydn Washington và John Cook là đồng tác giả, với lời nói đầu của Naomi Oreskes. Washington có sẵn nền tảng về khoa học môi trường trước khi viết tác phẩm này. Trong khi đó, Cook, được đào tạo về vật lý học, sáng lập trang web Skeptical Science vào năm 2007, nơi tổng hợp các bằng chứng được bình duyệt về biến đổi khí hậu. Cuốn sách do Earthscan, một bộ phận của Routledge, xuất bản lần đầu tiên dưới dạng bìa cứng và bìa mềm vào năm 2011. Cuốn sách trình bày phân tích chuyên sâu và bác bỏ quan điểm phủ nhận biến đổi khí hậu, xem xét từng điểm của một một số lập luận và bác bỏ chúng bằng các bằng chứng được bình duyệt theo quan điểm khoa học về biến đổi khí hậu. Các tác giả khẳng định rằng những người phủ nhận biến đổi khí hậu sử dụng các chiến thuật, gồm lựa chọn dữ liệu nhằm mục đích hỗ trợ quan điểm cụ thể của họ và công kích tính chính trực của các nhà khoa học khí hậu. Washington và Cook sử dụng lý thuyết khoa học xã hội để đánh giá hiện tượng phủ nhận biến đổi khí hậu rộng rãi hơn trong công chúng và gọi hiện tượng này là một dạng bệnh lý. Cuốn sách truy tìm nguồn tài trợ cho việc phủ nhận biến đổi khí hậu trong ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch, khẳng định các công ty đã và đang cố gắng gây ảnh hưởng đến dư luận về vấn đề này. Washington à Cook viết rằng các chính trị gia có xu hướng sử dụng các từ ngữ mơ hồ (hay còn gọi là weasel word) như một phần trong chiến thuật tuyên truyền qua việc sử dụng spin, như một cách để làm chệch hướng chú ý của công chúng khỏi biến đổi khí hậu và tiếp tục thụ động về vấn đề này. Các tác giả kết luận rằng nếu công chúng ngừng phủ nhận thì vấn đề biến đổi khí hậu có thể được giải quyết có thực tế. Việc phủ nhận biến đổi khí hậu là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với hành tinh và cần được giải quyết khẩn cấp, vì hậu quả của việc không hành động là rất nghiêm trọng. Với nghiên cứu về cuốn sách và nỗ lực truyền đạt bản chất về khoa học biến đổi khí hậu tới công chúng, John Cook đã giành được Giải thưởng Eureka năm 2011 của Bảo tàng Úc vì sự nâng cao kiến ​​thức về biến đổi khí hậu. Climate Change Denial có sự đón nhận tích cực trong các đánh giá từ các ấn phẩm bao gồm: The Ecologist, tạp chí ECOS, tập san học thuật Natures Sciences Sociétés, tạp chí Education do Liên đoàn Giáo viên New South Wales xuất bản. Bối cảnh Cuốn sách được viết bởi đồng tác giả, các nhà nghiên cứu khoa học môi trường người Úc, Haydn Washington and John Cook. Washington đã là nhà khoa học môi trường hơn 30 năm trước khi viết cuốn sách này. Những cuốn sách được xuất bản trước đây của ông về chủ đề khoa học môi trường bao gồm: Ecosolutions (1991), A Sense of Wonder (2002) và The Wilderness Knot (2009). Năm 2015, Washington là nghiên cứu sinh thỉnh giảng của Viện Nghiên cứu Môi trường tại Đại học New South Wales. Trình độ học vấn của Cook bao gồm nền tảng về vật lý. Trước khi viết cuốn sách, Cook đã thành lập trang web Skeptical Science, nơi tổng hợp những bằng chứng được bình duyệt về biến đổi khí hậu. Ông đưa lên trang này những khẳng định phổ biến nhất do các cá nhân lập luận chống lại sự đồng thuận khoa học về biến đổi khí hậu đưa ra, kèm theo bằng chứng để bác bỏ từng quan điểm mà họ đưa ra. Sau khi xuất bản Climate Change Denial: Heads in the Sand, Cook là đồng tác giả của một cuốn sách khác về chủ đề này, Climate Change Science: A Modern Synthesis: Volume 1 – The Physical Climate (2013). Năm 2015, Cook là chuyên gia truyền thông khí hậu tại Đại học Queensland. Climate Change Denial: Heads in the Sand do Earthscan, một bộ phận của Routledge, xuất bản lần đầu tiên vào năm 2011. Cả hai phiên bản bìa cứng và bìa mềm đều được phát hành vào tháng 4 năm 2011. Nhà xuất bản cũng phát hành phiên bản sách điện tử trong cùng năm. Bản phát hành sách điện tử thứ hai được Routledge xuất bản vào năm 2012. Cuốn sách này được Amazon.com cung cấp qua Kindle vào tháng 5 năm 2013. Tóm tắt nội dung Climate Change Denial: Heads in the Sand trình bày một phân tích chi tiết và bác bỏ phủ nhận biến đổi khí hậu. Trong lời nói đầu của cuốn sách, Naomi Oreskes viết rằng con người trở thành nạn nhân của hiện tượng phủ nhận do cảm thấy sợ hãi. Cuốn sách xem xét một số lập luận chống lại biến đổi khí hậu và sử dụng bằng chứng được bình duyệt có đồng thuận khoa học để hỗ trợ cơ sở lý luận cho tranh luận về tính hợp lệ của từng lập luận. Phương pháp của những người phủ nhận biến đổi khí hậu được đánh giá, bao gồm: lựa chọn dữ liệu có ý ủng hộ quan điểm cụ thể của họ, duy trì tiêu chuẩn cao về bằng chứng biến đổi khí hậu và chỉ trích các giá trị của các nhà khoa học khí hậu. Cuốn sách đưa ra lời giải thích tại sao một số cá nhân và công chúng nói chung có xu hướng phủ nhận đồng thuận khoa học về biến đổi khí hậu. Các tác giả thảo luận mở rộng về khái niệm phủ nhận bằng lý thuyết khoa học xã hội, ghi chú rằng nó xuất hiện trong xã hội khi các cá nhân sợ hãi hoặc xấu hổ về hành động của mình. Họ viết rằng những động lực này, với sự mở rộng từ cá nhân sang xã hội rộng lớn hơn, dưới dạng một loại bệnh tật. Cuốn sách xác định việc phủ nhận biến đổi khí hậu là một bệnh lý đang ảnh hưởng đến nền văn hóa của hành tinh. Các tác giả than thở rằng đang tồn tại một mối quan hệ nghịch đảo về sự gia tăng đồng thời giữa đồng thuận khoa học và sự phủ nhận của công chúng về vấn đề biến đổi khí hậu. Cuốn sách xác định nền tảng của một công ty có ảnh hưởng đến dư luận thông qua các công ty thu được lợi nhuận từ ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch. Washington và Cook viết rằng các chính trị gia thường sử dụng những lời lẽ sáo rỗng như một hình thức spin và tuyên truyền, nhằm hành động như thể họ sắp sửa làm điều gì đó về vấn đề biến đổi khí hậu, trong khi trên thực tế vẫn thụ động về vấn đề này. Các tác giả tiếp tục xác định mức độ phủ nhận lớn hơn, trong chính công chúng rộng lớn hơn. Họ lập luận rằng xã hội cho phép phủ nhận khí hậu học thông qua việc không hành động và chống lại sự đồng thuận khoa học. Các tác giả kết luận rằng nếu công chúng ngừng phủ nhận biến đổi khí hậu thì vấn đề trên thực tế có thể được giải quyết một cách đáng kể. Đón nhận Đồng tác giả John Cook của cuốn sách đã giành được Giải thưởng Eureka vì sự nâng cao kiến ​​thức về biến đổi khí hậu năm 2011, do chính quyền New South Wales trao tặng như một phần của Giải thưởng Eureka của Bảo tàng Úc, và được vinh danh vì vai trò của ông trong việc truyền đạt bản chất của khoa học biến đổi khí hậu cho công chúng. Giám đốc Viện Thay đổi Toàn cầu của Đại học Queensland, Giáo sư Ove Hoegh-Guldberg, trích dẫn nghiên cứu của Cook và quyền tác giả cuốn Climate Change Denial: Heads in the Sand là lý do giúp ông giành được giải thưởng. The Ecologist đánh giá cuốn sách và mô tả nó là: "được nghiên cứu kỹ lưỡng và chú thích cẩn thận". Bài đánh giá kết luận: Climate Change Denial là một cuốn sách khôn ngoan và kịp thời. ... Nó xứng đáng được độc giả ủng hộ". Mary-Lou Considine viết về cuốn sách trong tạp chí ECOS rằng nó "mổ xẻ những phản đối đối với khoa học được bình duyệt" với "chi tiết pháp y". Considine giới thiệu cuốn sách cho những ai người trước đây đã truy cập trang web Skeptical Science và muốn tìm hiểu thêm về chủ đề rộng hơn được thảo luận trên trang web. Trong bài đánh giá cuốn sách trên tạp chí học thuật Natures Sciences Sociétés, luận án của các tác giả đã được ca ngợi vì khả năng đưa lý lẽ vào phân tích của họ: "Cuốn sách này cho thấy cách chúng ta có thể vượt qua sự phủ nhận, chấp nhận thực tế và từ đó giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu". Natures Sciences Sociétés khuyến nghị công việc này cho nhiều bên liên quan, kết luận: "Nó sẽ thu hút sự tham gia của các nhà khoa học, sinh viên đại học, nhà hoạt động về biến đổi khí hậu và công chúng đang tìm cách đẩy lùi sự phủ nhận và hành động". Janine Kitson đã đánh giá cuốn sách trên tạp chí Education, một ấn phẩm của Liên đoàn Giáo viên New South Wales. Kitson mô tả tác phẩm này là kịp thời và quan trọng trong bối cảnh công chúng cần phải hành động trước thời điểm không thể quay đầu: "Đây là một cuốn sách quan trọng, cần đọc trước khi biến đổi khí hậu lan tràn thực sự vượt tầm kiểm soát của chúng ta". Bài đánh giá của cô kết luận: "Người ta chỉ có thể hy vọng rằng cuốn sách này sẽ được những người phủ nhận khí hậu đọc để chúng ta có thể bắt đầu hành trình đầy gian nan hướng tới một tương lai bền vững về mặt sinh thái".
8,366
19833634
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pica%20bottanensis
Pica bottanensis
Ác là phao câu đen (danh pháp hai phần: Pica bottanensis) là một loài ác là trong họ Corvidae. Loài này phân bố ở trung bộ Bhutan đến tây trung bộ Trung Quốc. Trước đây loài này được xem là một phân loài của Ác là (Pica pica). Một nghiên cứu phát sinh chủng loại phân tử được công bố vào năm 2018 cho thấy ác là phao câu đen là một phân loại chị em với ác là Asir từ tây nam Ả Rập Saudi. Chú thích
397
19833636
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng%20Th%C3%BAc%20%28n%C6%B0%E1%BB%9Bc%29
Vương Thúc (nước)
Vương Thúc là một nước chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Họ của quốc quân nước này là Cơ, và mang tước công. Người thành lập nước Vương Thúc là Vương Thúc Văn Công, một vương tử con trai của Chu Ly Vương. Tất cả quốc quân của nước Vương Thúc đều làm quan đại thần trong triều đình của thiên tử nhà Chu. Đô thành của quốc gia này, hiện thuộc về địa phận phía tây nam huyện Mạnh Tân, tỉnh Hà Nam. Năm thứ 10 triều Lỗ Tương Công (563 TCN), vua Vương Thúc là Vương Thúc Thần Sinh tranh giành quyền chính với Bá Dư. Chu Linh Vương sủng ái và ủng hộ Bá Dư. Vương Thúc Thần Sinh bỏ trốn đến sông Hoàng Hà. Nước Tấn nghe tin, bèn cử Phạm Tuyên tử (Sĩ Mang) đến để hòa giải giữa Vương Thúc Thần Sinh và Bá Dư. Việc không thành. Vương Thúc Thần Sinh tức giận bỏ trốn sang nước Tấn. Nước Vương Thúc mất từ đó. Quốc quân
831
19833668
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yamashita%20Yoshimi
Yamashita Yoshimi
sinh ngày 20 tháng 2 năm 1986 tại Tokyo, Nhật Bản, là một nữ trọng tài bóng đá người Nhật Bản. Bà từng làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019 diễn ra trên đất Pháp, và bà cũng điều hành trận đấu vòng bảng môn bóng đá nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2020 giữa Thụy Điển và Hoa Kỳ. Vào năm 2022, bà trở thành một trong 6 trọng tài nữ làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 diễn ra tại Qatar, đồng thời cũng trở thành một trong ba trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử làm nhiệm vụ tại giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam cùng với Stéphanie Frappart của Pháp và Salima Mukansanga của Rwanda. Bà ra mắt giải đấu với tư cách là trọng tài thứ tư trong trận đấu giữa giữa Bỉ và Canada tại lượt trận đầu tiên của bảng F, và làm trọng tài thứ tư trong 6 trận đấu tại giải đấu. Cũng trong năm 2022, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại AFC Champions League và J1 League, đó là các trận đấu mà Melbourne City (Úc) giành chiến thắng trước Jeonnam Dragons (Hàn Quốc) với tỷ số 2–1, và trận đấu mà FC Tokyo giành chiến thắng với tỷ số 2–0 trước Kyoto Sanga. Vào ngày 19 tháng 7 năm 2023, bà bắt chính trận khai mạc Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 giữa giữa New Zealand và Na Uy tại lượt trận đầu tiên của bảng A. Trong trận đấu này, sau khi tham khảo ý kiến của các trợ lý trong phòng VAR, bà quyết định cho đội New Zealand hưởng một quả phạt đền. Tuy nhiên, cầu thủ Ria Percival đã không thể tận dụng thành công.
1,458
19833672
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cabal%20Online
Cabal Online
Cabal Online (cách điệu: CABAL Online) là tựa game nhập vai trực tuyến nhiều người chơi 3D dưới dạng free-to-play được công ty ESTsoft của Hàn Quốc phát triển. những phiên bản bản địa hóa khác nhau của game tồn tại ở nhiều quốc gia và khu vực khác nhau. Mặc dù là free-to-play, trò chơi sử dụng mô hình kinh doanh freemium bằng cách triển khai "Item Shop" (cửa hàng vật phẩm), cả trong game và thông qua trang web, cho phép người chơi mua những đồng xu cao cấp đặc biệt bằng tiền thật, để có được các tính năng và cải tiến độc quyền của trò chơi, những vật phẩm hữu ích và các loại nội dung hư ảo. Cốt truyện Cabal Online diễn ra trong một thế giới hư cấu có tên là Nevareth, gần một nghìn năm sau khi bị một nhóm người có lý tưởng mạnh mẽ gọi là CABAL tàn phá. Với hy vọng biến đổi thế giới của mình thành một utopia, họ đã vô tình thúc đẩy các thế lực và quy luật tự nhiên nổi dậy chống lại mình, gây ra sự kiện được gọi là Ngày Tận Thế. Sau sự hủy diệt, chỉ có tám thành viên của CABAL sống sót, bao gồm cả thủ lĩnh của họ tên gọi Faust. Khi tiên tri về tương lai, Faust đã nhìn thấy sự trỗi dậy của một thế lực tà ác một lần nữa sẽ hủy hoại vùng đất Nevareth. Trong thời đại ngày nay, thế lực hắc ám đó đã đến đây rồi. Giờ đây người chơi phải đối mặt với làn sóng tay sai xâm chiếm thế giới và khám phá sự thật đằng sau đó. Lịch sử Cabal Online được phát hành lần đầu tiên tại Hàn Quốc vào tháng 10 năm 2005. Trò chơi sau đó được phát hành từ giai đoạn thử nghiệm closed beta ở châu Âu vào tháng 7 năm 2006, và vào tháng 12 năm 2006, có thông báo rằng tựa game này và tất cả các phiên bản tiếp theo đã trở thành free-to-play. Ở Bắc Mỹ, OGPlanet đã nhận được giấy phép dành cho game và thử nghiệm open beta bắt đầu vào ngày 1 tháng 2 năm 2008. Người ta cũng tuyên bố rằng bản phát hành đầy đủ rất có thể sẽ ra mắt vào cuối tháng 2. Ngày 28 tháng 2 năm 2008, phiên bản chính thức ra mắt tại Bắc Mỹ, trong lúc bản closed beta bắt đầu ở Đông Nam Á. Gameforge phát hành Cabal Online ở Đức vào ngày 3 tháng 12 năm 2009. Dịch vụ ở Bắc Mỹ do OGPlanet cung cấp đã bị ngừng vào ngày 31 tháng 3 năm 2010 do công ty không đạt được thỏa thuận với ESTsoft, trong khi ESTsoft sau đó đã thiết lập lại dịch vụ trực tiếp ở Bắc Mỹ. Lối chơi Là một MMORPG điển hình, lối chơi trong Cabal Online chứa đựng các yếu tố của cả PvP và PvE, cũng như việc giết người chơi. Các yếu tố PvE bao gồm cày game và làm nhiệm vụ thưởng cho người chơi các loại vật phẩm và điểm kinh nghiệm, cũng như phó bản để nhận được các loại kho báu và "Alz", đơn vị tiền tệ trong game. Các yếu tố PvP bao gồm tiêu diệt người chơi trong các kênh đặc biệt (có hình phạt nếu giết hàng loạt), sắp xếp các cuộc đấu tay đôi giữa hai người chơi mà không có hình phạt nào cho bên nào, hệ thống Mission War, chia người chơi thành hai quốc gia, Capella và Procyon, cũng như phe Trung lập và yêu cầu họ tiến hành chiến tranh với nhau trong các sự kiện Tierra Gloriosa, các kênh chiến tranh cụ thể và tất cả các màn chơi cấp cao hơn (luôn kích hoạt chiến tranh) và cuối cùng là hệ thống Bang hội đấu với Bang hội, cho phép các cuộc chiến tranh nhỏ được sắp xếp giữa hai bang hội. Người chơi có thể liên kết với nhau để thành lập một nhóm với tối đa sáu nhân vật. Điểm kinh nghiệm thưởng được trao cho các thành viên trong nhóm dựa trên sự đóng góp của họ. Trò chơi được chia thành các máy chủ hoặc thế giới trò chơi, mỗi máy chủ có tên riêng và tập hợp các phân khu - kênh tiếp theo. Mặc dù người chơi từ các máy chủ khác nhau không thể tương tác với nhau trừ khi họ chuyển sang cùng một máy chủ bằng các vật phẩm cao cấp đặc biệt, họ có thể tự do chuyển đổi qua tất cả các kênh có sẵn trên một máy chủ, bao gồm cả kênh Premium nếu họ đã mua gói Premium. Tuy nhiên, các nhân vật ở các kênh khác nhau không thể hỗ trợ trực tiếp lẫn nhau; chỉ những nhân vật trong cùng một kênh mới có thể tương tác. Trò chuyện bỏ qua hạn chế này đối với các chế độ trò chuyện như nhắn tin riêng tư (thì thầm), trò chuyện bang hội, trò chuyện nhóm hoặc phòng trò chuyện cá nhân. Tất cả các máy chủ ở mỗi phiên bản bản địa hóa đều có nội dung như nhau, ngoại trừ cơ sở người chơi và nền kinh tế. Tuy vậy, các phiên bản khu vực khác nhau của Cabal Online có thể có nội dung khác nhau, đặc biệt là bản địa hóa tiếng Hàn, luôn cập nhật hơn các phiên bản còn lại. Mỗi tài khoản cho phép sáu nhân vật trên mỗi máy chủ, nhưng chỉ cần một tài khoản để truy cập tất cả các máy chủ. Các kênh sử dụng các cơ chế khác nhau tùy thuộc vào mục đích của chúng. Những kênh được gắn nhãn màu xanh lá cây thân thiện với người mới và vô hiệu hóa tính năng giết người chơi (mặc dù cơ chế chiến tranh vẫn được áp dụng, ngay cả trong những màn chơi tiêu chuẩn cấp cao hơn), trái ngược với các kênh màu trắng không cấm điều đó. Kênh Thương mại được thiết kế đặc biệt để mua và bán vật phẩm trong game, áp dụng các hạn chế đối với lối chơi thông thường, chẳng hạn như xóa quyền tiếp cận dungeon phó bản và hình nộm luyện tập, cũng như loại bỏ tất cả kẻ thù trong môi trường. Giao dịch trên kênh này có thể được thực hiện thông qua các kênh phát sóng toàn kênh hoặc các quầy hàng ở chợ cá nhân, trong đó các mặt hàng có thể được bày bán và định giá để mọi người có thể tiếp cận. Chỉ những người dùng đã mua gói Premium hoặc gói tương đương từ Item Shop mới có thể truy cập bất kỳ kênh nào được gắn thẻ Premium. Các kỹ năng đặc biệt trong game được mở khóa tại một số điểm nhất định trong quá trình phát triển của nhân vật bằng cách hoàn thành các nhiệm vụ "xếp hạng" cụ thể. Những kỹ năng này bao gồm Combo Mode, cho phép sử dụng liên tiếp một số kỹ năng khi đồng hồ kết hợp được nhấn đúng thời điểm, cũng như một số Battle Mode cung cấp phần thưởng thuộc tính tạm thời cho nhân vật hoặc thậm chí là chế độ chiến đấu đặc biệt. Thế giới Thế giới của Cabal Online được chia thành các khu vực khác nhau, cụ thể là màn chơi và dungeon. Những người chơi bắt đầu sẽ chỉ có thể tiếp cận ba màn chơi và một khu vực "Warp Gate", nơi cung cấp quyền tiếp cận đi bộ vào cả ba màn chơi ban đầu. Khi tiến vào trò chơi và đạt được cấp độ nhân vật, họ sẽ được cấp quyền tiếp cận các màn chơi mới và ngày càng khó, cũng như các dungeon phó bản. Mỗi màn chơi có bối cảnh và thời tiết khác nhau; ví dụ trong số này bao gồm sa mạc, rừng rậm, băng tuyết và thậm chí cả cảnh quan thành phố tương lai hoặc địa ngục. Mỗi màn chơi có một nhóm NPC riêng, chẳng hạn như nhân vật nhiệm vụ và cửa hàng, cũng như nhiều quái vật để chiến đấu và nhận kinh nghiệm cũng như kho báu. Việc di chuyển từ màn chơi này sang màn chơi khác được thực hiện bằng cách đi qua các liên kết Warp Gate hoặc bằng cách sử dụng Premium GPS Warp để chuyển ngay sang một màn chơi cụ thể. Khi hỗ trợ di chuyển bằng cách đi bộ, người chơi có thể sở hửu các loại phương tiện đặc biệt, cụ thể là Astral Boards và Bikes, mang lại tốc độ cao hơn hoặc sử dụng các kỹ năng tăng cường chuyển động đặc biệt "Dash" và "Blink", những kỹ năng sau chỉ dành riêng cho lớp nhân vật Wizard. Lớp nhân vật Có tám lớp nhân vật trong Cabal Online. Khi một nhân vật được tạo thành, người chơi phải chọn lớp nhân vật mà nhân vật đó sẽ đảm nhận. 8 lớp nhân vật này bao gồm Warrior, Blader, Wizard, Force Blader, Force Shielder, Force Archer, Gladiator và Force Gunner. Các lớp nhân vật khác nhau cung cấp các chiến lược, thư viện kỹ năng, kho vũ khí và thậm chí cả địa điểm xuất phát khác nhau. Bằng cách lên cấp, người chơi sẽ nhận được điểm mà họ có thể áp dụng trong ba thuộc tính khác nhau sẽ định hình tính cách của họ, đó là Strength hoặc STR, Intelligence hoặc INT và Dexterity hoặc DEX. Các thuộc tính này ảnh hưởng đến một số thuộc tính phụ sẽ xác định điểm mạnh và điểm yếu của nhân vật một cách hiệu quả. Các thuộc tính phụ này là Attack, sức mạnh thể chất của kỹ năng Kiếm, Magic, sức mạnh phép thuật của kỹ năng Phép thuật, Defense, khả năng chống lại các cuộc tấn công của kẻ thù, Hit hoặc Attack Rate, độ chính xác của tất cả các đòn tấn công của người chơi và Defense Rate, tốc độ các đòn tấn công của kẻ thù được né tránh hoàn toàn. Nation/Mission War Khi người chơi đã đạt đến cấp 52 và hoàn thành nhiệm vụ chọn Quốc gia, trong thời gian đó họ sẽ chọn phe Capella hoặc Procyon, một sự kiện mới sẽ được kích hoạt cho người chơi. Đây là Nation War, diễn ra nhiều lần mỗi ngày và cho phép các quốc gia đối lập chiến đấu với nhau và nhận được điểm kinh nghiệm chiến tranh, sau đó có thể chuyển đổi thành điểm kinh nghiệm, kinh nghiệm kỹ năng hoặc điểm danh dự, cũng như thành phần thưởng đặc biệt ở mỗi phe trong cuộc chiến này. Tùy thuộc vào cấp độ của nhân vật, người chơi sẽ có thể truy cập các kênh Nation War khác nahu. Trong Chiến tranh, người chơi đấu tranh để vượt qua các địa điểm quan trọng được kiểm soát bởi những quái vật hộ mệnh hùng mạnh gọi là Legacy Guardians, chống đỡ người chơi đối phương và sau cùng chiếm quyền kiểm soát căn cứ chính của kẻ thù, giành chiến thắng một cách hiệu quả trên chiến trường. Đón nhận Cabal Online nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ giới phê bình. Tháng 12 năm 2006, PC Gamer UK đã chấm cho game 6,4 điểm, nhận xét rằng trò chơi này "chung chung đến mức đáng kinh ngạc". Tạp chí cũng đã chỉ trích Cabal Online vì chia sẻ nhiều tính năng như các tựa game MMORPG Hàn Quốc khác. Bất chấp những đánh giá tiêu cực từ PC Gamer UK, trò chơi vẫn được bình chọn là một trong "9 Game MMO Miễn Phí Đáng Chơi Nhất" trong số tháng 6 của tạp chí này. Phần tiếp theo Cabal Online 2 được quảng bá tại Hàn Quốc vào tháng 10 năm 2010 trước khi bắt đầu G-Star 2010, tại Busan. Trò chơi khuyến khích sự thay đổi từ chủ đề "techno-punk" ban đầu thành chủ đề hoàng gia, một trò chơi siêu hành động với sáu lớp nhân vật có sẵn. Tuy nhiên, thay đổi này bao gồm việc loại bỏ lớp nhân vật Blader khỏi trò chơi gốc, thay thế bằng lớp nhân vật Priest mới. Phần tiếp theo của Cabal Online sử dụng CryEngine 3 làm game engine đồ họa chính. Phần tiếp theo đã ngừng hoạt động vào ngày 8 tháng 4 năm 2018.
9,861
19833673
https://vi.wikipedia.org/wiki/Musa%20Al-Taamari
Musa Al-Taamari
Mousa Mohammad Mousa Sulaiman (; sinh ngày 10 tháng 6 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Jordan hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh phải cho câu lạc bộ Montpellier tại Ligue 1 và Đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan. Sự nghiệp thi đấu Shabab Al-Ordon Al-Tamari bắt đầu sự nghiệp của mình ở Shabab Al-Ordon, anh nổi tiếng với sự nhanh nhẹn, kỹ năng tuyệt vời và động tác chân tuyệt vời. Vì thế, anh đã được gọi vào đội tuyển quốc gia sau sáu trận đấu đầu tiên. Bên cạnh đó, anh còn đạt được Jordan FA Shield 2016. Al-Jazeera (mượn) Vào tháng 9 năm 2017, anh được cho mượn tại Al-Jazeera, Anh thi đấu tại Cúp AFC 2018 và ghi 6 bàn sau 10 trận cho đội bóng của mình, dành được Cúp FA Jordan 2017–18. APOEL Vào ngày 28 tháng 5 năm 2018, Al-Tamari ký hợp đồng 3 năm với mức phí 400 nghìn euro với câu lạc bộ APOEL. Anh cùng đội bóng vô địch Siêu cúp bóng đá Síp 2019, Giải bóng đá hạng nhất Síp 2018–19 và được biết đến như một trong những cầu thủ giỏi nhất ở Síp. Anh cũng đã giành được MVP (Cầu thủ đắt giá nhất) của giải đấu. OH Leuven Vào ngày 5 tháng 10 năm 2020, Al-Tamari gia nhập câu lạc bộ OH Leuven tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ bằng bản hợp đồng kéo dài 3 năm, với mức phí chuyển nhượng được báo cáo là 1,1 triệu euro. Montpellier Vào ngày 11 tháng 5 năm 2023, Al-Tamari ký hợp đồng 3 năm theo dạng chuyển nhượng tự do với câu lạc bộ Montpellier. Anh trở thành cầu thủ Jordan đầu tiên ký hợp đồng với câu lạc bộ Ligue 1. Trước đây, anh cũng nhận được lời mời từ Levante, Blackburn, Fenerbahçe, cũng như từ MLS và các giải đấu vùng Vịnh, trước khi chấp nhận lời đề nghị đến Montpellier. Anh ra mắt Ligue 1 vào ngày 13 tháng 8, trong trận hòa 2–2 trước Le Havre. Vào ngày thi đấu tiếp theo, Al-Taamari ghi hai bàn vào lưới Lyon trong chiến thắng 4-1, trở thành cầu thủ Jordan đầu tiên ghi bàn ở Ligue 1, cũng như có tên trong Đội hình xuất sắc nhất tuần do L'Équipe bình chọn. Sự nghiệp quốc tế Al-Tamari đã từng thi đấu ở cấp độ U-23. Anh ra mắt quốc tế cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan vào ngày 31 tháng 8 năm 2016 trong trận giao hữu quốc tế với Liban, trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 1-1. Al-Tamari lúc đó chỉ mới 19 tuổi. Anh tiếp tục có thêm sáu lần ra sân quốc tế trong năm 2016. Năm 2017, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Jordan trong trận giao hữu với Hồng Kông. Al-Tamari có tên trong đội hình tuyển Jordan tham dự Cúp bóng đá châu Á 2019, chơi ba trận, ghi một bàn và có hai pha kiến ​​​​tạo tại giải đấu. Phong cách thi đấu Là một cầu thủ chạy cánh phải thuận chân trái, Al-Tamari có xu hướng chung là cắt vào trong và tiếp cận cầu thủ bằng khả năng rê bóng của mình. Khả năng giữ bóng gần chân ngay cả trong không gian hẹp là điều khiến anh trở nên rất nguy hiểm khi tấn công hàng phòng ngự. Tốc độ, sự lắt léo và phong cách chơi chung của Al-Tamari đã khiến anh được so sánh với cầu thủ chạy cánh của Liverpool, Mohamed Salah. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Quốc tế Bàn thắng quốc tế Tỷ số và kết quả liệt kê bàn ​​thắng đầu tiên của Jordan, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Al-Taamari. Danh hiệu Shabab Al-Ordon -Jordan FA Shield: 2016 Al-Jazeera -Cúp FA Jordan: 2017–18 APOEL -Giải bóng đá hạng nhất Síp: 2018–19 -Siêu cúp bóng đá Síp: 2019 Cá nhân -MVP Giải bóng đá hạng nhất Síp: 2018–19
3,259